Hoàng Việt và bản giao hưởng bỏ dở
Năm 2017 là 50 năm ngày hy sinh của nhạc sĩ Hoàng Việt (31/12/1967) và năm 2018 này là 90 năm ngày sinh của ông (29/10/1928). Tuy vậy, không thấy Hội Nhạc sĩ VN hay các địa phương là quê hương nội ngoại và nơi sinh của ông như Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang hay TP Hồ Chí Minh tổ chức kỷ niệm tưởng nhớ ông, người nhạc sĩ lớn của đất nước, nghệ sĩ - liệt sĩ anh hùng thời chống Mỹ cứu nước. Và mong ước của tôi một lần được nghe bản giao hưởng Cửu Long, bản giao hưởng 3 chương phải bỏ dở của ông vẫn chỉ là mong ước. Nhớ ông, tôi xin chia sẻ bài viết về ông.
Vợ chồng Nhạc sĩ Hoàng Việt
Những ai yêu âm nhạc cổ điển thế giới đều biết bản giao hưởng số 8, giọng si thứ, sáng tác vào năm 1822 của nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo Franz Schubert mang tên "Unfinished Symphony" mà giới nhạc Việt thường gọi là ”Giao hưởng bỏ dở”. Bản giao hưởng này gần đây đã chiếm sóng VTV trong dịp quốc tang Chủ tịch nước Trần Đại Quang và nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười. Ở nước ta, có một nhạc sĩ kiệt xuất cũng có một bản giao hưởng bỏ dở mang tển “Cửu Long”. Đó là nhạc sĩ Hoàng Việt. Schubert từ giã thế giới vì nghèo đói và bệnh tật vào một ngày mùa đông tháng 11 năm 1828, ở tuổi 32, Còn Hoàng Việt vĩnh biệt chúng ta, ngày 31 tháng 12 năm 1967, ngay trên bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang quê hương, khi bị trúng đạn rốc két của máy bay Mỹ, thân xác hoà tan trong con kênh chảy ra dòng sông Cửu Long. Lúc ấy Hoàng Việt mới vừa qua tuổi 39.
Từ "Tiếng còi trong sương đêm" đến các ca khúc kháng chiến bất hủ
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh ngày 29/10/1928 tại Chợ Lớn. Quê cha ở thị xã Bà Rịa, quê mẹ ở Cái Bè, Tiền Giang. Từ những năm học trung học ở Sài Gòn, lúc mới 16, 17 tuổi, Lê Chí Trực với bút danh Lê Trực đã viết những ca khúc như “Chị Cả”, “Biệt đô thành” và “Tiếng còi trong sương đêm”, trong đó ca khúc theo điệu tango “Tiếng còi trong sương đêm” qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Vân những năm 1944-1945 được người dân Sài Gòn và Nam Bộ rất yêu thích:
Bến nước gió rét đò đưa khách sang
Lau xanh ven sông mờ rung bóng trăng
Đêm nay không gian chìm trong giá băng…
Mà đoàn hùng binh âm thầm xông lướt trong sương…
Khi ra đi có hứa thu nay về
Mà hôm nay lá thu đã rơi tràn
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa ở Nam Bộ, nếu các hành khúc của Lưu Hữu Phước như “Lên đàng”, “Tiếng gọi thanh niên” là lời kêu gọi, tiếng kèn thúc giục thanh niên đứng dậy cứu nước thì “Tiếng còi trong sương đêm” là lời tâm sự và quyết tâm ra đi của một lớp thanh niên đô thành được thức tỉnh bởi lời kêu gọi và tiếng kèn thúc giục ấy. Cho đến nay, sau hơn 65 năm ra đời, ca khúc trữ tình thắm sâu tinh thần yêu nước này là một trong những ca khúc tiền chiến vẫn còn được hát nhiều nhất cả trong nước lẫn hải ngoại qua tiếng hát của các ca sĩ nhiều thế hệ.
Năm 1947, Lê Chí Trực thực sự “biệt đô thành” ra bưng biền tham gia kháng chiến và là thành viên trẻ nhất của đội ngũ văn nghệ kháng chiến Nam Bộ, đầu tiên công tác tại chiến trường miền Tây “dọc ngang sông rạch” rồi sau đó chuyển sang chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”. Do mang theo một số bài hát từng phổ biến ở Sài Gòn trong đó có Tiếng còi trong sương đêm, ông bị nghi là "phản động" nên bị bắt giam và đưa đi lao động cải tạo 3 tháng. Nhờ lãnh đạo cơ quan văn nghệ bảo lãnh nên sau đó ông được trở về công tác. Trong những tháng năm này, giữa tuổi 20, chàng thanh niên yêu nước Lê Chí Trực đã trở thành nhạc sĩ – chiến sĩ Hoàng Việt, người phát ngôn kỳ tài bằng âm nhạc ý chí chiến đấu, tinh thần lạc quan của quân dân Nam Bộ thành đồng tổ quốc với các ca khúc “Lá xanh”, “Nhạc rừng”, “Mùa lúa chín “, “Lên ngàn”, "Tình thương mến"… Nếu “Lá xanh” là bài hát tòng quân ra trận thật rộn ràng, tươi trẻ, lôi cuốn thì “Nhạc rừng” như sự ngân vang tuyệt vời của thiên nhiên đất nước trong tâm hồn người chiến sĩ vệ quốc, còn “Lên ngàn” là khúc tráng ca về sức sống bất khuất, sự hy sinh thầm lặng và niềm tin sắt đá vào chiến thắng cuối cùng của người phụ nữ Nam Bộ giữa ngút ngàn đau thương, tang tóc, gian khó của cuộc kháng chiến trưòng kỳ:
Nước ngập đồng xanh lúa chết
Gió mưa sập đổ mái nhà
Bao nhiêu gia đình tan hoang
Đau thương lệ rơi chứa chan
Em đi cắt lúa trên ngàn rẫy trên ngàn nắng chiều chang chang
Đường đi nước ngập mênh mang
bàn chân dẫm gai lòng không thở than…
Cùng với “Làng tôi”, “Tiến về Hà Nội”, “Trường ca sông Lô” của Văn Cao, “Hành quân xa”, “Du kích sông Thao”, “Giải phòng Điện Biên” của Đỗ Nhuận, “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, “Tiếng chuông nhà thờ” của Nguyễn Xuân Khoát, “Lỳ và Sáo”, “Quê tôi giải phóng” của Văn Chung…ba ca khúc đậm chất lãng mạn cách mạng trên của Hoàng Việt nằm trong số những ca khúc hay nhất của âm nhạc cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp và là những ca khúc mãi đi cùng năm tháng như chúng ta thưòng nói.
Bài tình ca Việt Nam hay nhất thế kỷ 20
Cùng với “Bài ca hy vọng” của Văn Ký, “Tình trong lá thiếp” của Phan Huỳnh Điểu, “Trăng sáng đôi miền” của An Chung, “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của Hoàng Hiệp, “Giữ trọn tình quê” của Văn Cận… “Tình ca” của Hoàng Việt ra đời trong những năm đầu đất nước bị chia cắt, là các ca khúc mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước rất đặc biệt trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Đối với Hoàng Việt, “Tình ca” như là một bài hát rất riêng tư. Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra Bắc, để lại ở miền Nam người vợ trẻ đẹp và ba đứa con thơ, đứa lớn nhất chưa đến 5 tuổi. Từ đấy, như bao ngưòi con miền Nam tập kết, ở thủ đô Hà Nội Hoàng Việt luôn sống trong tình cảnh “Ban ngày bận công tác/Ban đêm nằm nhớ em/Ban ngày ở miền Bắc/Ở miền Nam ban đêm” (Tế Hanh).
Năm 1957, sau hơn hai năm trời bặt vô âm tín, Hoàng Việt bất ngờ nhận được thư vợ từ miền Nam gửi ra, lá thư đã phải đi vòng vèo vạn dặm qua tận nước Pháp xa xôi rồi mời về được Hà Nội để đến tay ông. Hoàng Việt nhòa nước mắt khi đọc thư vợ. Những xung động mãnh liệt, trào dâng từ những nhớ thương, tin tưởng, tự hào với người vợ hiền đảm, từ nỗi đau đất nước chia cắt và gia đình ly tán, Hoàng Việt chợt cảm nhận rõ ràng hơn bao giờ hết sức mạnh kỳ diệu của tình yêu đôi lứa trong sự gắn bó thiêng liêng với tình yêu quê hương đất nước. Một sức mạnh bất chấp không gian xa cách và thời gian dằng dặc, thách thức mọi phong ba bão tố, vượt trên chiến tranh thù hận, xóa tan đau khổ chia ly, để tỏa sáng như ánh sao đêm, thơm ngát như cánh hoa xuân và bền vững muôn đời như sông nước Cửu Long bất diệt. Và bản “Tình ca” đã ra đời như tiếng lòng của Hoàng Việt gửi về người vợ phưong xa với những nhắn nhủ thủy chung son sắt:
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi
Biển lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xoá nhoà…
Giữ lấy đức tin bền vững em ơi
Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời
Là một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người
Ngay sau khi ra đời, “Tình ca” đã được ca sĩ Quốc Hương, người bạn thân từ chiến trường Nam Bộ của Hoàng Việt, thu thanh, phát trên sóng Đài Tiếng nói VN làm ngây ngất thính giả trong và ngoài nước. Tuy vậy, thật khó tin, khi bản tình ca tha thiết, mạnh mẽ nhường ấy lại bị một số quan chức văn hoá và cả một số văn nghệ sĩ phê phán là bi luỵ, yếu đuối và lập tức bị lưu kho. Mãi đến hơn 10 năm sau, sau khi Hoàng Việt trở về miền Nam chiến đấu, sáng tác và hy sinh, “Tình ca” mới được phổ biến trở lại.
Từ đấy, “bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người” của Hoàng Việt đã cất cánh bay đến với các thế hệ người Việt ở mọi phương trời, trở thành khúc tình ca được cả dân tộc ca hát trong hơn nửa thế kỷ qua, cả trong chiến tranh cũng như giữa thời bình, cả trong đau khổ và hạnh phúc. Với sức chinh phục vô song và khả năng thức tỉnh, nâng mọi tâm hồn vươn đến những điều cao đẹp, thánh thiện, “Tình ca” xứng đáng được coi là bài tinh ca hay nhất của âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20 như nhiều người tôn vinh.
Bản giao hưởng số 1 của âm nhạc hàn lâm Việt Nam
Năm 1958, Hoàng Việt được cử sang học tập tại Nhạc viện Sofia, Bulgari. Đến cuối năm 1964, ông tốt nghiệp hạng ưu tú tại đây với bản giao hưởng số 1 của ông, cũng là bản giao hưởng đầu tiên của âm nhạc VN mang tên “Quê hương”. Sau 7 năm tu nghiệp tại một nhạc viện lớn của châu Âu, người nhạc sĩ tự học từ đô thành Sài Gòn năm xưa đã nỗ lực vươn lên làm chủ được thể loại giao hưởng, thể loại âm nhạc được coi là lớn nhất và khó nhất của âm nhạc hàn lâm thế giới, “một trong những biểu hiện rực rỡ nhất của sự trưởng thành về tinh thần của loài người” như nhận định của giới mỹ học châu Âu.
Giám đốc Nhạc viện Sofia từng tự hào đánh giá: “Bản giao hưởng của Hoàng Việt không phải là một tác phẩm tốt nghiệp mà thật sự là một tác phẩm lớn… Đó là một thành công rực rỡ của âm nhạc Việt Nam”. GS Ca Lê Thuần cũng cho rằng giao hưởng “Quê hương” của Hoàng Việt đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của nền âm nhạc Việt Nam dân tộc hiện đại, là giá trị tinh thần sống mãi với đất nước.
Theo Hoàng Việt, “những ký ức quê hương” và “trách nhiệm của một công dân” đã giúp ông viết nên bản giao hưởng với lời đề tặng “Kính dâng Nam Bộ trong cuộc chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm”…
“Quê hương” là bản giao hưởng sử thi đồ sộ gồm 4 chương, với những hình tượng âm nhạc phong phú khắc hoạ cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Tác giả đã sử dụng chất liệu những bài hát cách mạng và dân ca để làm các chủ đề, được phát triển nhuần nhuyễn với những cảm xúc sáng tạo tinh tế và một bút pháp khá điêu luyện.
Chương I diễn tả không khí những ngày Cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, được viết dưới hình thức sonate với các chủ đề lấy từ các ca khúc “Hội nghị Diên Hồng”, “Lên đàng” của Lưu Hữu Phước, “Nam Bộ kháng chiến” của Tạ Thanh Sơn, “Chiến thắng Điện Biên” của Đỗ Nhuận. Chương II mang tính chất trữ tình, miêu tả quê hương từ chiến tranh chuyển sang những ngày hòa bình, được viết dưới hình thức ronto với các chủ đề lấy từ “Lên ngàn”, “Mùa lúa chin” (Hoàng Việt), “Kỵ binh Việt Nam” của Lê Yên, “Cây trúc xinh”, dân ca quan họ Bắc Ninh và “Quê tôi giải phóng” của Văn Chung. Chương III là chương nhanh, kịch tính, nhằm miêu tả cuộc kháng chiến chống Mỹ, được viết dưới hình thức sonate, bao gồm các chủ đề phát triển từ bài “Giải phóng miền Nam” của Lưu Hữu Phước, “Đợi chờ”, dân ca Tây Nguyên và “Lên đàng”.
Trong chương này, âm nhạc mang tính căng thẳng, kịch tính cao độ để thể hiện cuộc chiến tranh một mất một còn, cuối cùng phần tái hiện mang âm hưởng hai bài “Lên đàng” và “Giải phóng miền Nam” biểu hiện quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Chương IV mang âm hưởng vui tươi, rộn rã, thể hiện niềm vui khi đất nước giành được độc lập tự do. Chương này được xây dựng với hình thức 3 đoạn phức cùng phần coda trang trọng, hoành tráng, có sự tham gia của dàn hợp xướng thể hiện ước mơ được sống trong hạnh phúc thanh bình của dân tộc.
Trong năm 1964, giao hưởng “Quê hưong” đã được biểu diễn ba lần tại thủ đô Bugari: lần thứ nhất trong dịp Hoàng Việt thi tốt nghiệp với Dàn nhạc Nhạc viện Sofia và hai lần nữa để phục vụ công chúng với Dàn nhạc Giao hưởng Bugari. Dàn nhạc Giao hưởng Bungari cũng đã thu thanh giao hưởng “Quê hương” để phát trên đài phát thanh Quốc gia nước này.
Tại Việt Nam, khi Hoàng Việt trở về Hà Nội, bản giao hưởng này cũng đã được Nhà hát giao hưởng hợp xướng nhạc vũ kịch VN và hai danh ca Quốc Hương, Vũ Dậu dàn dựng, công diễn cùng bản giao hưởng số 5 của nhạc sĩ vĩ đại người Nga P.I.Tchaikovsky vào ba đêm 26, 27, 28 tháng 3 năm 1965 tại Nhà hát Lớn Hà Nội dưới đũa chỉ huy của nhạc trưởng, nghệ sĩ công huân Triều Tiên Ly Hiơng Un. Đó là ba đêm nghệ thuật không thể nào quên không chỉ với Hoàng Việt mà cả với người hâm mộ và giới âm nhạc hàn lâm Việt Nam…
Ông tiên tóc trắng ở khu nhà 87 B Lý Thường Kiệt, Hà Nội
Tôi nhớ mãi ấn tượng về Hoàng Việt khi ông đến sống tại khu nhà 87B Lý Thượng Kiệt, Hà Nội. Đây là khu nhà dành cho các văn nghệ sĩ miền Nam tập kết gồm nhà thơ Bảo Định Giang, các nhà văn Khương Minh Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Vũ, họa sĩ Nguyễn Tấn Hưng, nghệ sĩ điện ảnh Nhị Hà và ba tôi, nhà nghiên cứu Mịch Quang.
Đầu năm 1965, khi Hoàng Việt từ Bungari về nước, nhà thơ Bảo Định Giang, Phó Tổng thư ký phụ trách văn nghệ miền Nam của Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật VN, đã cùng gia đình dọn đến trong cơ quan 51 Trần Hưng Đạo, nhường căn phòng lớn của gia đình tại đây cho nhạc sĩ đồng hương Tiền Giang tài năng đến ở để có điều kiện sáng tác.
Khi ấy, tôi là một cậu học sinh lớp 9 mê nhạc cổ điển, rất tự hào khi biết người nhạc sĩ nổi tiếng của những “Lên ngàn”, “Nhạc rừng” và giao hưởng “Quê hương” đến ở trong khu nhà mình. Hàng ngày, Hoàng Việt hầu như chỉ ở trong căn phòng của ông và tôi luôn được nghe tiếng đàn piano vọng ra từ đấy. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới thoáng thấy bóng ông ra ngoài với vóc dáng mình hạc xương mai và mái tóc bạc trắng. Với tôi, Hoàng Việt gần thật đấy mà cứ xa xôi huyền hoặc như là một ông tiên trong cổ tích.
Tôi không hề biết ông tiên tóc bạc trắng này chỉ mới 37 tuổi. Ít lâu sau, nhạc sĩ Văn Cận sau khi tu nghiệp ở Trung Quốc về, đã đến ở với ba con tôi và tôi đã đôi lần theo nhạc sĩ Văn Cận vào chơi với nhạc sĩ Hoàng Việt trong căn phòng của ông. Được đối diện thật gần với Hoàng Việt, tôi thấy ông không già như tôi tưởng, ông có đôi mắt thật sáng và nụ cười thật hiền từ. Nghe Hoàng Việt và Văn Cận trò chuyện, tôi biết hai nhạc sĩ của “Tình ca” và “Giữ trọn tình quê” khi tập kết đều để lại vợ con ở miền Nam, nay đều có nguyện vọng trở về Nam chiến đấu, sáng tác, mong có cơ hội sum họp gia đình và nguyện vọng đó đã được cấp trên chấp thuận.
Bên cây đàn piano, Hoàng Việt và Văn Cận đã đàn và hát cho nhau nghe các sáng tác mới chuẩn bị cho chuyến hồi hương thiêng liêng, Hoàng Việt với bài “Giết giặc Mỹ cứu nước” còn Văn Cận có bài “Mẹ ơi! Con sẽ trở về”. Thời gian này, chị tôi sau khi tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp đã xung phong về miền Nam được hơn một năm. Trong thư chị gửi ra cho gia đình, tôi được biết chị tôi đã phải mất hơn hai tháng trời vượt qua hàng ngàn cây số đèo dốc Trường Sơn mới về được đến quê hương. Nhìn Hoàng Việt và Văn Cận, tôi thầm nghĩ không biết hai ông sẽ làm thế nào để vượt Trưòng Sơn, khi Văn Cận thì cận thị rất nặng còn Hoàng Việt thì quá mảnh khảnh, gầy guộc…Sau tết 1966, tôi không còn được gặp Hoàng Việt và Văn Cận tại khu nhà 87B Lý Thường Kiệt Hà Nội nữa, hai ông đều đã lên đường…
Cửu Long - Bản giao hưởng bỏ dở
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trưởng đoàn văn nghệ sĩ đi chiến trường Nam Bộ đầu năm 1966 kể rằng ông và các văn nghệ sĩ trong đoàn không ai nghĩ rằng Hoàng Việt có khả năng vượt nổi Trường Sơn bởi thấy ông quá ốm yếu. Trên đường Trường Sơn, Nguyễn Quang Sáng luôn bố trí Hoàng Việt đi đầu khi hành quân nhưng bao giờ ông cũng là người cuối cùng đến trạm, rất lâu sau khi mọi người đã đến đã nấu cơm và ăn cơm xong.
Khi cả đoàn đã lên võng ngủ Hoàng Việt mới lủi thủi một mình lặng lẽ nhóm bếp nấu cơm. Có lần, Hoàng Việt bị lật cổ chân, chân sưng to, mưng mủ, đoàn muốn gửi ông lại trạm để dưỡng bệnh nhưng ông vẫn cắn răng lết theo đoàn, kể cả khi phải mang thêm hơn 10 cân gạo ăn đường trong cái ba lô đã nặng gần bằng trọng lượng 42 kg người ông. Cứ thế, sau hơn ba tháng, Hoàng Việt vẫn theo kịp đoàn để về đến quê hương trong sự kinh ngạc của mọi người.
Toại nguyện về với quê hương, bất chấp đói khổ, ác liệt, ngay trên chiến khu, song song với việc đào hầm, cất nhà, tải gạo, với bút danh mới Lê Quỳnh, Hoàng Việt đã say sưa sáng tác với năng xuất chưa từng có. Từ cuối năm 1966 đến giữa năm 1967, ông đã hoàn thành 12 ca khúc và vở nhạc kịch “Bông sen” kể chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch với 102 trang phần đệm piano để gửi ra miền Bắc. Ông còn viết nhạc cho hai điệu múa của Văn công R, rồi chuyển “Bông sen” từ thể loại lớn opera thành một nhạc cảnh nhỏ để Văn công R có thể biểu diễn phục vụ tại chiến trường.
Trong lá thư viết cho nhạc sĩ Đỗ Nhuận tháng 5/1967, Hoàng Việt nói với Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN rằng dù rất tích cực sáng tác phục vụ kịp thời nhưng ông vẫn không quên dồn tâm sức sáng tác những tác phẩm lớn góp phần đánh dấu giai đoạn tiến triển mới của âm nhạc cách mạng miền Nam. Hoàng Việt còn bày tỏ với nhạc sĩ Đỗ Nhuận khát vọng đưa âm nhạc cách mạng thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của người dân miền Nam.
Sau niềm hạnh phúc to lớn được đón người vợ yêu thương và ba đứa con từ Sài Gòn ra chiến khu sum họp gia đình sau hơn 13 năm xa cách trong dịp tết 1967, Hoàng Việt lại bắt đầu một thử thách mới. Ông xin tổ chức cho rời chiến khu về với vùng đất ven bờ Cửu Long, vùng chiến sự ác liệt, để lấy cảm hứng thực hiện dự án sáng tác lớn ông hằng ôm ấp: bản giao hưởng số 2 của ông, giao hưởng mang tên “Cửu Long” .
Theo Hoàng Việt, đây sẽ là giao hưởng có 3 chương: Chiến thắng, hạnh phúc và xây dựng. Và ông đã lên đường về Cao Lãnh, Tiền Giang men theo đường số 4 và bờ sông Cửu Long để tìm hiểu thêm những điều Hoàng Việt gọi là “những khía cạnh đặc biệt” nơi dòng sông vĩ đại của quê hương. Cuối năm 1967, sau những ngày tháng băng đồng, qua lộ, chịu bom pháo, Hoàng Việt đã đặt chân về đến quê mẹ Tiền Giang, đã đến rất gần với sóng nước Cửu Long.
Nhưng ngay trên bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang, con kênh nhỏ chảy ra Cửu Long, trong buổi sáng cuối cùng năm 1967, sáng 31 tháng 12, Hoàng Việt và những người cùng đi bất ngờ bị máy bay Mỹ tập kích. Hoàng Việt bị trúng đạn rốc két của kẻ thù. Ông hy sinh, thân xác hoà tan trong con kênh chảy ra dòng sông Cửu Long. Khi ấy, Hoàng Việt mới vừa qua tuổi 39. Và bản giao hương số 2 của đời ông, giao hưởng “Cửu Long”, trở thành bản giao hưởng bỏ dở…