Hướng tới Liên hoan Âm nhạc Á - Âu: nhạc sĩ Đỗ Nhuận
Tác phẩm tham dự Festival: Opera “Cô Sao” trích đoạn Aria "Cô Sao" và Duo “Sao - Hà”
Thể loại: Opera
Tóm tắt tiểu sử:
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận (1922 – 1991) – Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt I). Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những cánh chim đầu đàn của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam.
Đỗ Nhuận sinh ngày 10 tháng 12 năm 1922 tại làng Vạc (nay là thôn Hoạch Trạch), xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Rời quê hương từ thuở niên thiếu, Đỗ Nhuận cùng gia đình sống nhiều năm tại thành phố cảng Hải Phòng, nơi đây ông đã tiếp xúc được với những kiến thức âm nhạc đầu tiên.
Năm 14 tuổi, Đỗ Nhuận tham gia hướng đạo sinh, hát những ca khúc Pháp và châu Âu. Ông cũng tự học âm nhạc dân tộc và biết chơi sáo trúc, tiêu, đàn nguyệt, đàn tứ, đàn bầu. Sau đó, khi âm nhạc cải cách bước đầu nhen nhóm, Đỗ Nhuận cũng bắt đầu tiếp xúc với tân nhạc, học đàn guitar, banjo, kèn harmonica và ghi âm. Sau ông còn học thêm violon, baian với các nhạc công người Nga lưu vong ở Hà Nội.
Năm 1939, Đỗ Nhuận sáng tác ca khúc đầu tay vào tuổi 17, bản Trưng Vương, nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng ở tỉnh Hải Dương. Trưng Vương được phổ biến rộng rãi và đã xuất bản ngay trong năm đó. Tiếp theo, từ cảm hứng lịch sử, ông soạn nhiều ca khúc như: Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc... là cơ sở soạn nên vở ca cảnh Nguyễn Trãi - Phi Khanh gồm 3 ca khúc Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc được ông viết trong hai năm 1940, 1941.
Thời gian đó, Đỗ Nhuận cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1943, vì in và rải truyền đơn tuyên truyền cho cách mạng nên ông bị bắt giam vào nhà lao Hải Dương, rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La. Thời gian trong tù, Đỗ Nhuận đã viết nhiều bài hát cách mạng như: Hận Sơn La, Du kích ca…
Đỗ Nhuận cũng là nhạc sĩ đầu tiên trong thế hệ của ông được đào tạo bài bản, ông được cử đi học tại Nhạc việ Tchaikovsky từ năm 1959 đến 1962. Ông là một trong những người đặt nền móng cho thể loại nhạc kịch Việt Nam (Opera). Năm 1965, Đỗ Nhuận cho ra đời vở nhạc kịch đầu tiên “Cô Sao”, rồi sau đó là “Người tạc tượng” (1974), “Nguyễn Trãi” (1982).
Trước đó, ông đã sáng tác các vở ca kịch (Operete) như: Cả nhà thi đua, Sóng cả không ngã tay chèo, Anh Pǎn về bản, Hòn đá. Và những năm tiếp theo (1970 – 1980) là các vở: Chú Tễu, Ai đẹp hơn ai, Trước giờ cưới, Quả dưa đỏ...
Đỗ Nhuận còn có những tác phẩm khí nhạc như “Vũ khúc Tây Nguyên” cho violon và dàn nhạc... Nhưng tên tuổi ông vẫn gắn bó với những ca khúc nổi tiếng qua các thời kỳ từ 1943 với: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân, Viếng mồ tử sĩ, Du kích ca, Đoàn lữ nhạc, Áo mùa đông, Nhớ chiến khu... đến Tiếng súng Nam Bộ (1946), Du kích Sông Thao, Bé yêu già Hồ (1948), và đặc biệt là chùm ca khúc: Hành quân xa, Trên đồi Him Lam, Chiến thắng Điện Biên (1954)…
Sau hòa bình 1954, Đỗ Nhuận tiếp tục sáng tác và có mặt trong lĩnh vực thanh nhạc và khí nhạc, nổi bật là những tác phẩm như: Việt Nam quê hương tôi, Trai anh hùng gái đảm đang, Vui mở đường, Đường bốn mùa xuân, và các tác phẩm khí nhạc như: Khúc biến tấu trên chủ đề dân ca cho flute và piano Mùa xuân trên rừng (1963), tứ tấu đàn dây Tây Nguyên (1964), ba biến tấu cho violon và piano (1964), tổ khúc giao hưởng Điện Biện (1965), giao hưởng thơ Đimit'rov (1981)... Ngoài ra, còn phải kể đến kịch múa rối Giấc mơ bé Rồng (1968), kịch múa Mở biển (1973) và nhạc nền trong các phim tài liệu và phim truyện: Chiến thắng Điện Biên (1954), Nguyễn Vǎn Trỗi (1965), Mở đường Trường Sơn (1972), Lǎng Bác Hồ (1975).
Các Giải thưởng:
- Huân chường Độc lập hạng Nhì
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt I)
và nhiều Huân, Huy chương cao quí khác.
(Nguồn: http://asia-europemusicfestival.com)