Hoa Lang Biang: Chuyện bây giờ mới kể

02/07/2015

Tôi vẫn gọi Đình Nghĩ là dòng sông Hương chảy ngược. Âm nhạc Đình Nghĩ là sự hợp hôn giữa dòng Hương và dòng K’rông Nô. Một dòng Hương ray rứt, trầm lặng và một dòng K’rông Nô cuồn cuộn gió sóng, gầm gào chảy về phía thẳm xa đại ngàn.


Ảnh: Chân dung tác giả Hoa Lang Biang

Hồ Tuyền Lâm thứ bảy. Gió, sóng, trăng và… tôi. Phía bàn đối diện là tiếng cười vàng ệch, ngả ngốn của các tửu đồ đang trong trạng thái thăng hoa, nhập đồng. Phía xa nữa là đốm lửa bập bùng reo sương cùng những giọt âm sắc rộn rã, vui tươi nhả ra từ chiếc guitar thùng mà nhạc sĩ Đình Nghĩ đang ngẫu hứng miên du về miền ký ức ẩn ảo, qua khúc ca Hoa Lang Biang - một biến thể của bài chiêng Đi săn bắt con nai - Pep tồr jùn, nhưng hoàn chỉnh hơn về mặt nhạc học. “Em lên nương mang gùi trên vai như hoa trên đồi Lang Biang. Sông K’rông Nô xanh màu mắt em buôn làng Kôn Đố. Em yêu quý núi rừng buôn làng của em”.

Tôi rơi vào miên thanh khi nghe lại những khúc nhạc ngẫu hứng mang âm hưởng dân nhạc truyền thống Tây Nguyên lấp lánh trong bóng nắng lung linh với hình ảnh người sơn nữ vai mang gùi nơi núi rừng điệp trùng.

Hoa Lang Biang được nhạc sĩ Đình Nghĩ sáng tác vào năm 1982, nhân chuyến sưu tầm, điền dã dưới chân núi Lang Biang. Kể từ khi xuất hiện, cách nay hơn 3 thập kỷ, Hoa Lang Biang vẫn là một trong những ca khúc thành công nhất của Đình Nghĩ và luôn được nhiều thế hệ say mê. Ca khúc được nhạc sĩ viết theo hình thức 2 đoạn đơn tương phản.

Đoạn a, được viết ở giọng Mi thứ (Em) một đoạn đơn, gồm 2 câu nhạc, bắt đầu từ “Em lên nương…” cho đến “… hát khúc tâm tình”. Câu 2 “Chim Chơ lang…” nhắc lại nguyên dạng chất liệu âm nhạc của câu 1.

Giữa đoạn a và đoạn b, nhạc sĩ Đình Nghĩ sử dụng một câu nhạc nối, gồm có 4 nhịp “Hê… Hề… Hế…”.

Chuyển sang đoạn b từ “Câu yal yau (gian giao)…” đến “… Hoa Lang Biang”, Đình Nghĩ viết ở giọng Mi trưởng (E), giọng cùng tên với giọng Mi thứ (Em) ở đoạn a và bắt đầu xuất hiện chất liệu âm nhạc mới, tương phản hoàn toàn với đoạn a.

Ở đoạn a, nhạc sĩ Đình Nghĩ sử dụng chất liệu của âm nhạc K’Ho, giai điệu với nét nhạc quãng 3 thứ; đến đoạn b, sử dụng giai điệu với nét nhạc quãng 3 trưởng và quãng 3 thứ đan xen nhau. Cụ thể, trong câu “Hát, hát lên đi và cùng em đi khắp nương đồi. Múa, múa quanh vòng và cùng em múa quanh lửa hồng”, thì sự không rõ ràng giữa trưởng và thứ nơi âm nhạc cồng chiêng đã được Đình Nghĩ hoàn chỉnh theo âm nhạc bác học phương Tây.

Ca sĩ đầu tiên thể hiện bài Hoa Lang Biang là Mơbonne Ka Thiếu - người Cill, lúc này đang theo học tại Trường Trung học Phổ thông Bùi Thị Xuân - TP Đà Lạt. Sau đó, Mơbonne Ka Thiếu đã được ngành văn hóa Lâm Đồng tuyển chọn vào Đội Thông tin lưu động và nửa năm sau trở thành thành viên chính thức của Đoàn Ca Múa Nhạc Dân tộc Lâm Đồng. Mơbonne Ka Thiếu đã đem Hoa Lang Biang đi tham dự giọng hát hay toàn quốc ở Hà Nội và đoạt huy chương vàng. Còn ca khúc Hoa Lang Biang thì được Hội Nhạc sĩ Việt Nam trao tặng giải thưởng riêng cho sáng tác mới. Từ đó đến nay, trong các hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng hay chuyên nghiệp, trên sân khấu rực rỡ ánh đèn hay ở một bon làng hẻo lánh bên bếp lửa nhà sàn, ca khúc Hoa Lang Biang của nhạc sĩ Đình Nghĩ luôn vang lên đằm thắm, trẻ trung trong mọi lứa tuổi, mọi người. Có lẽ không có hội diễn nào ở cấp tỉnh cũng như cấp huyện, chương trình nào đi dự liên hoan toàn quốc mà không sử dụng ca khúc Hoa Lang Biang của Đình Nghĩ và đều đoạt từ huy chương bạc trở lên. Về sau, ca khúc này còn được ca sĩ Bonneur Trinh thể hiện cũng khá thành công.

Trở về với lịch sử và trở về với nhạc sĩ Đình Nghĩ một chút, để thấy ẩn sau ca khúc Hoa Lang Biang là mối tình đẫm sắc cổ tích giữa chàng trai của núi Ngự, sông Hương với cô sơn nữ sinh sống nơi dãy Lang Biang huyền thoại. Khổ một nỗi, mối tình nhuốm sắc thái cổ tích ấy kết thúc lại có nhiều sai khác so với motif của những chuyện cổ tích kinh viện.

Năm 1980, là năm đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Đình Nghĩ, không chỉ bởi lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất đa văn hóa Lâm Đồng, sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội, chuyên ngành Nhạc cụ dân tộc, mà chính sự thay đổi nơi cư trú này đã thôi thúc Đình Nghĩ tìm kiếm tư duy riêng để có thể tự định nghĩa mình trong sáng tác âm nhạc thay vì biểu diễn Nhã nhạc Cung đình Huế.

Cũng trong năm này, Đình Nghĩ gặp và chơi thân với Lâm Tuyền Tĩnh - một người tâm huyết với di sản folklore, công tác tại Sở Văn hóa - Thông tin Lâm Đồng. “Có thể nói tôi thật sự bàng hoàng, kinh ngạc trước một con người đắm đuối folklore đến thế!” - Đình Nghĩ nhớ lại. Rồi Đình Nghĩ theo chân Lâm Tuyền Tĩnh điền dã về các buôn làng xa xôi, hẻo lánh của đồng bào dân tộc thiểu số Châu Mạ, K’Ho ở Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Huoai và thấy dân nhạc ở đây kỳ lạ quá. Cồng chiêng mà đồng bào diễn tấu, diễn xướng không giống với âm nhạc ngũ cung Tây phương, có nghĩa là quãng 3 giữa trưởng và thứ không rõ ràng. Nguyên nhân là do cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang âm bồi tự nhiên để thiết lập thang âm cho mỗi bộ chiêng. Theo đó, mỗi bộ chiêng thường có thang 3 âm hay thang 6 âm cơ bản và một chiếc chiêng cồng sẽ tạo ra một âm cơ bản, tương đương với mỗi nốt trên phím đàn. Mỗi một nghệ nhân chơi chiêng trong giàn chiêng sáu sẽ đảm trách một nhạc âm trong đường tuyến giai điệu và chuỗi giai điệu trong một bài chiêng chính là sự kết tinh của sự phối hợp ăn ý giữa sáu nghệ nhân chơi chiêng. Ngoài ra, giàn cồng chiêng khi trình tấu lại trải dài trong không gian, nên giai điệu luôn hiện hữu dưới dạng hiệu ứng âm thanh nổi - một hiện tượng dường như chỉ thấy ở âm nhạc cồng chiêng, cùng với độ cao thấp, dài ngắn, còn nghe được cả độ xa gần.

Qua những lần gặp gỡ, giao lưu ấy, Đình Nghĩ nhận thấy những sở học trường quy về nhạc cụ dân tộc đã không còn phù hợp với mảnh đất và con người Tây Nguyên, nên từ đó, mới bắt đầu có ý thức tìm hiểu nhạc lý truyền thống Tây Nguyên.

Đình Nghĩ lại tiếp tục lên đường đến với các buôn của người Lạch, người Cill dưới chân núi Lang Biang hùng vĩ. Ở đây, Đình Nghĩ gặp những chàng trai, cô gái “… da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa” (Ơi M’Dak của nhạc sĩ Nguyễn Cường) cứ đêm về là quây quần bên nhau so chiêng, chỉnh nhịp và tấu lên những âm thanh đại ngàn. Trong đó, có bài chiêng “Pep tồr jùn”, được xem như “quốc ca” của các dân tộc M’nông, Cill, Lạch… Thế rồi, Đình Nghĩ dựa trên điệu thức của bài chiêng này để viết nên ca khúc Hoa Lang Biang.

Nhiều người bảo rằng, hoa Lang Biang là một loài hoa cụ thể, có thật ở Cao nguyên Lơm Biêng (theo thổ âm người Cill, Lạch, chứ không phải như xưa nay mọi người vẫn quen gọi Cao nguyên Lâm Viên). Nhưng trên thực tế, hoa Lang Biang là một loài hoa ảo, không có thật và nhạc sĩ Đình Nghĩ là người sáng tạo nên để ca ngợi vẻ đẹp của một sơn nữ trên vùng núi Lang Biang. Tôi thì quả quyết xác tín, đấy nhất định phải là “mối tình đầu” của nhạc sĩ Đình Nghĩ với một người sơn nữ nào đó. Bởi, chỉ có tình yêu đầu mới để lại những dư chấn trong veo mà đằm sâu đến vậy. Còn những mối tình sau này, theo tôi, chẳng qua là những hóa tướng khác nhau của mối tình đầu lỡ dở. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa tôi đánh giá thấp và cho rằng những mối tình về sau không đẹp, không sâu sắc. Thậm chí, tôi còn đánh giá rất cao nữa là đằng khác, nhưng đẹp và sâu sắc trong những chương đoạn số phận riêng tư.

Nhạc sĩ Đình Nghĩ xác nhận: “Đình Nghĩ viết Hoa Lang Biang là để tặng một cô gái người Cill ở buôn Kôn Đố, nương náu phía sau chân núi Lang Biang”. Cô gái người Cill ở buôn Kôn Đố mà nhạc sĩ Đình Nghĩ nhắc, có tên Liêng Hót Ka Ben. Cuộc hạnh ngộ trong tình yêu này đã để lại cho người nhạc sĩ hai đứa con, một trai và một gái. Thế nhưng, trong tình yêu luôn sẵn chứa những điều nghịch dị: Hạnh phúc liền kề khổ đau, mầm sống đi cùng sự hủy diệt. Một ngày nọ, tình yêu kia đã không còn. Nguyên mẫu và tác giả đành mỗi người một ngả. Vì sao vậy? Chẳng vì sao cả. Vì một sự lựa chọn tưởng chừng đã đúng cuối cùng sai. Vì tình yêu tự thân đã là một phạm trù siêu lý nên đau đắng cũng cứ theo đấy mà dặc dài. Và, vì… muôn vàn lý do.

Nguyên mẫu của ca khúc Hoa Lang Biang - sơn nữ Liêng Hót Ka Ben, giờ đã có một môi trường khác, sống một cuộc đời khác. Thay vì ngày xưa chân trần lên nương, thì nay hằng ngày sơn nữ Liêng Hót Ka Ben lại nện giày cao gót trên những đại lộ thênh thang của nước Mỹ giàu sụ. Chẳng biết Hoa Lang Biang thuở nào có còn đủ sức để giải thoát tác giả - nguyên mẫu khỏi những đớn đau, trăn trở, những sự bất như ý trong đời thực và làm phục sinh những điều tưởng chừng không còn tái tạo được nữa, hay đã trở thành một vết thương phản tỉnh mà cả hai người đều muốn né tránh. “Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng e ngại. Dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi” - Trịnh Công Sơn từng nói thế và tôi tin chắc Trịnh Công Sơn đúng.

Trong tình yêu, có thể gây nên tổn thương, có thể mang lại hạnh phúc. Nhưng đau thương hay hạnh phúc, bao giờ tình yêu cũng mang bộ mặt của sự cứu chuộc. Cứu chuộc trong hạnh phúc đã đành, tình yêu còn cứu chuộc cả trong đớn đau, vật vã. Vì vậy, tình yêu cần được và phải được hiển thánh trên cả hai bình diện phi lý và có lý.

Nay, tất cả đã là quá khứ, song ca khúc Hoa Lang Biang chưa bao giờ là dĩ vãng. Nó vẫn nồng nã vang ngân trên môi những ai yêu quý con người và mảnh đất Nam Tây Nguyên - Lâm Đồng gió nắng. Cao và xa hơn thế, Hoa Lang Biang đã trở thành… dân ca như hai trường hợp sau đây mà tôi có dịp chứng kiến.

Có anh bạn cũng là nhạc sĩ đang công tác tại Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam vào Lâm Đồng tham quan và nghiên cứu. Bước chân lãng tử của chàng trai Hà thành đã đặt xao xác dưới chân núi Lang Biang. Trong lần đầu tiên chạm vào miền cao nguyên nắng gió Lâm Đồng, chàng trai Hà thành đã thật sự bị thuyết phục bởi không khí văn nghệ nơi đây. Hằng đêm, các chàng trai, cô gái người Lạch, người Cill lại tụ tập quanh đống lửa và ngân nga những bài chiêng, điệu chiêng, nhịp xoang. Đêm vơi dần cùng ché rượu cần, bếp lửa, ca khúc Hoa Lang Biang bỗng trổi lên. Nghe qua, giai điệu khá giống các điệu chiêng mà người Cill, Lạch, M’nông thường xuyên sử dụng trong các lễ nghi. Ngỡ đây là một khúc dân ca của người Tây Nguyên, nên anh bạn nhạc sĩ đã lấy giấy bút ra ký âm bài Hoa Lang Biang. Rồi anh bạn nhạc sĩ này đem về khoe với Đình Nghĩ mình mới sưu tầm được một bài dân ca của đồng bào Tây Nguyên rất hay. Vừa nói anh ta vừa chìa bản ký âm cho Đình Nghĩ xem. Thấy vậy, nhạc sĩ Đình Nghĩ bảo: “Bài đấy của tao chứ dân ca đâu mà dân ca!”.

Ca khúc Hoa Lang Biang không chỉ thành công trong nước mà còn nhanh chóng lan tỏa ra cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại. Con gái của nhạc sĩ Đình Nghĩ hiện đang theo học và định cư tại Mỹ trong một lần về Việt Nam đã kể lại câu chuyện khá thú vị. Ở Mỹ, sau những lần tham gia hội trại hoặc liên hoan văn hóa, văn nghệ…, thể nào ca khúc Hoa Lang Biang cũng được con em cộng đồng các dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên cất lên. Trong một lần như thế, con gái của nhạc sĩ Đình Nghĩ, buộc miệng: “Bài Hoa Lang Biang là của bố tao đấy!”, thì mọi người trố mắt: “Mày chỉ được cái bốc phét, chứ làm gì có chuyện đó. Bài hát này là của dân gian truyền lại mà!”.

Đình Nghĩ không chỉ có mỗi ca khúc Hoa Lang Biang, mà Đình Nghĩ còn là tác giả của những ca khúc: Say trăng, Hương chiều, Bông bí vàng ngày hạ… cũng rất nổi tiếng và hay không kém. Nhưng dù sao tôi vẫn dành sự ưu ái của mình cho ca khúc Hoa Lang Biang hơn. Vì nó thể hiện được tâm trạng, tiếng lòng và làm tôi thấy lại thấp thoáng bóng dáng người sơn nữ chông chênh trong quá khứ của riêng mình.

Tin liên quan

08/03/2021
Nhạc sĩ Thanh Tùng - tác giả của hàng loạt ca khúc nhạc trẻ từng làm mê đắm bao thế hệ rời cõi tạm vào ngày 15/3/2016 (nhằm mồng 9 tháng 2 âm lịch). Mặc dù, người nhạc sĩ tài ...