GS.TS. Trần Văn Khê: “Phải biết thương nghệ thuật cha ông”
Tôi tới căn biệt thự mà chính quyền TP Hồ Chí Minh dành cho GS, TS Trần Văn Khê (trong ảnh) khi ông chính thức trở về Việt Nam sinh sống thì vị Giáo sư nổi tiếng ngoài 90 tuổi, tuy ngồi xe lăn nhưng vẫn miệt mài lên mạng đọc tin tức, gửi email. Ông trăn trở: “Tôi đã nói rất nhiều, viết cũng rất nhiều nhưng dường như không ai quan tâm, trong khi âm nhạc dân tộc đang chìm dần vào quên lãng”.
Đó có phải là điều đáng buồn cho nền âm nhạc truyền thống Việt Nam hiện nay, thưa GS?
Đáng sợ, đáng lo chứ không chỉ đáng buồn! Thanh niên xa rời âm nhạc dân tộc vì nhiều lẽ. Thứ nhất là do điều kiện lịch sử, nước ta bị thực dân Pháp đô hộ cả thế kỷ, họ không cấm âm nhạc dân tộc nhưng đẩy lùi âm nhạc Việt Nam vào bóng tối, làm người dân quên vốn quý dân tộc, đổ xô học âm nhạc phương Tây. Suốt hai cuộc chiến tranh, mọi lực lượng đổ xô đánh giặc giữ nước, văn hóa dân tộc gần như bị đứt đoạn. Thứ hai là bởi dân mình chỉ hãnh diện học âm nhạc bác học phương Tây, cầm cây violon thì khoe, học đàn cò thì giấu giếm. Đó là tâm lý mặc cảm của người Việt, coi cái gì của mình cũng thua người ta. Nước nhà thống nhất, Chính phủ phải ưu tiên cơm ăn, áo mặc nên âm nhạc bị sao lãng. Nhạc mới, thậm chí chất lượng kém cũng được trả cả triệu đồng, còn nhạc dân tộc thì vài chục nghìn đồng. Không ai muốn học nhạc dân tộc để rồi chịu cảnh nghèo túng. Dân chúng mải lo làm ăn, không giáo dục con cháu về thẩm mỹ âm nhạc dân tộc, trong khi ngôi sao Hàn Quốc đến thì đổ xô đi đón rần rần, còn âm nhạc dân tộc làm chương trình rất công phu như CLB Tiếng hát Quê hương phát 600 giấy mời nhưng chỉ có chừng 200 người tới. Chính quyền chưa chăm lo đúng mực tới đời sống của nghệ nhân. Trong khi đó, ở những đất nước như Hàn Quốc, người làm nghệ thuật dân tộc luôn được coi như báu vật quốc gia.
Nhưng thưa ông, cũng có ý kiến cho rằng, những nước có kinh tế phát triển thì mới có điều kiện đối đãi tốt?
Đây là do tư duy chứ đâu phải tại nghèo hay giàu! Ấn Độ không giàu có nhưng vẫn tôn trọng âm nhạc dân tộc. Trong đời sống xã hội hiện nay có nhiều thay đổi gây bất lợi cho âm nhạc dân tộc. Xưa mẹ ru con, “sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”.
Nay mẹ không hát ru cho trẻ nhỏ thì khi lớn lên, chúng sẽ không thể nhớ và neo giữ âm nhạc dân tộc. Trước đây, người dân hò hát cho quên mệt nhọc, họ tham gia và là chủ thể tạo nên âm nhạc dân tộc, còn nay thì thường để máy phát thanh thu sẵn, thụ động nghe. Gia đình có điều kiện kinh tế ở thành phố thì cho con trẻ học trường quốc tế. Và còn do cách giáo dục trong nhà trường của chính chúng ta.
Xã hội phát triển như vậy thì sự thay đổi với cách nhìn nhận, thưởng thức âm nhạc dân tộc cũng là điều tất yếu chăng, thưa GS?
Nếu chỉ mất một, hai yếu tố thì không sao, nhưng nay chúng ta đã mất hết, mất cả tư duy lẫn tình yêu với âm nhạc dân tộc. Cần phải xem lại và lập lại tuần tự những điều đưa trẻ em đến gần vốn quý dân tộc như: tiếng hát ru, tổ chức những dàn hò khi làm việc, hát đối ca nam nữ trong lúc nghỉ ngơi...
Cơ quan quản lý nói, văn hóa Việt Nam phải có tính chất dân tộc, khoa học đại chúng, nên sáng tác điệu nhạc phải có tính đương đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nói thì đúng nhưng dân chúng làm việc cực khổ mà chưa có đủ cơm ăn áo mặc, lấy đâu ra tiền mua đàn và trả học phí? Trong các nhạc viện, sinh viên không có tiền mua đàn piano thì có thể luyện tập với cây đàn của trường, còn với nhạc cụ dân tộc, sinh viên phải tự trang bị.
Tức là khi hô hào học nhạc dân tộc, mình không tự đầu tư thì ai sẽ đầu tư cho mình?
Đúng thế, Nhật Bản là nước công nghiệp gấp nghìn lần Việt Nam mà còn coi âm nhạc dân tộc là quốc gia chi bảo. Nếu mình không quan tâm thật sự thì ai có thể làm thay cho mình? Mẹ không biết ru con thì nên có chương trình hát ru để thay thế.
Chính quyền, báo chí cần tôn vinh người làm âm nhạc dân tộc. Muốn tìm lại âm nhạc dân tộc thì phải khuyến khích giá trị dân tộc, mà việc đầu tiên chính quyền phải bỏ kinh phí đào tạo, người thầy cũng không được giấu nghề và trò phải tầm sư học đạo. Học để hiểu, có hiểu mới thương, có thương mới tập luyện rồi mới biểu diễn thì âm nhạc dân tộc mới được hồi sinh, chứ nay thì tàn tạ lắm rồi.
Nhắc lại chuyện cũ, nếu năm 1976, GS không gặp NSND Quách Thị Hồ và ghi âm giọng hát của bà để chuyển tới các cuộc thi âm nhạc dân tộc của nước ngoài thì ca trù sẽ ra sao?
Thì sẽ bị rơi vào quên lãng. Khi tôi ra Hà Nội năm 1976, kiếm tiếng trống chầu còn không có, đờn cũng đờn lén, nay ở nhiều nơi có thể nghe được ca trù. Người Việt Nam thường không nhận ra vốn quý mình đang có, chỉ tới khi thế giới quan tâm tới một bộ môn nào đó thì mới... giật mình.
Chắc ông rất xót xa khi nhiều “báu vật quốc gia” hiện sống trong cảnh thanh bần và gần đây, nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu mất trong nghèo túng?
Thương xót không đủ mà phải đấu tranh cho họ. Khi có dịp, tôi luôn sẵn sàng giới thiệu chân giá trị khoa học và nghệ thuật của các bộ môn âm nhạc dân tộc. Người Việt Nam phải biết thương nghệ thuật của cha ông, thương người làm nghệ thuật.
Hiện nay chúng ta có một số loại hình nghệ thuật dân tộc được thế giới vinh danh. Nhưng đâu phải đợi UNESCO công nhận thì nó mới có giá trị mà đã có giá trị từ trước. Việc đưa ra thế giới để họ công nhận là tốt, vì trước đây vốn không ai để ý thì nay được quan tâm. Nhưng đó vẫn là cái nhìn của người ngoài, chẳng lẽ chính bản thân dân tộc Việt Nam không biết quý trọng vốn liếng cha ông mình?
Thời trai trẻ, được tiếp cận âm nhạc phương Tây, tôi thấy nó mới mẻ nên quyết định phải học. Tuy nhiên, mỗi âm nhạc có ngôn ngữ phù hợp với từng dân tộc. Khi bị đau, nằm ở nhà thương, tôi xoay 180 độ về với âm nhạc cha ông. Tôi chuộc tội với âm nhạc dân tộc bằng việc giới thiệu nó trên khắp thế giới và trong nước. Nhưng làm suốt đời chưa được thành công, mười phần thì cũng mới chỉ được tới năm, sáu.
GS Trần Văn Khê và NSƯT Trần Thị Tuyết tại một buổi thuyết trình biểu diễn nghệ thuật
dân tộc ở tư gia.
Thưa GS, tôi cảm thấy sự ngậm ngùi, bất lực của một người tâm huyết trong giọng nói của ông?
Một con chim én không làm nên mùa xuân. Tâm huyết của 100 người trong xã hội không bằng một người có tâm trong cơ quan quản lý, vì quyền lực, tiền bạc nằm trong tay thì mọi yêu cầu sẽ được thực hiện dễ dàng.
Nhiều nếp văn hóa dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử trong xã hội xuống cấp ghê gớm. Nhất là trong gia đình, xưa gọi dạ bảo vâng, đi thưa về trình thì nay không còn. Trong trường thì khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” nhưng thực chất thiếu tôn ti, trật tự. Ra ngoài đường không ít người không tôn trọng luật pháp.
Câu chuyện về giao thông cho thấy, người Việt Nam thường tôn trọng sự tự do của mình mà không tôn trọng sự tự do của người khác.
Tuổi cao, sức yếu nhưng ông vẫn miệt mài làm việc không ngừng nghỉ. Có vẻ như cho tới thời điểm này, âm nhạc dân tộc vẫn là nỗi canh cánh lớn nhất của ông?
Hồi nào tới giờ tôi vẫn vậy. Tôi thường đi nói chuyện âm nhạc dân tộc hoặc tổ chức những buổi nói chuyện, biểu diễn âm nhạc Việt Nam tại nhà, nhưng có mấy người trong giới chức quản lý tới nghe. Tôi chỉ mới thấy có chừng mươi người quan tâm thật sự. Tôi luôn ưu tư, nhưng nay ưu tư nhiều hơn nữa. Nhất là khi tuổi tôi đã cao, sức đã cạn mà chưa nhận thấy dấu hiệu gì đáng mừng.
Xin được chia sẻ với mối ưu tư lớn của giáo sư. Trân trọng cảm ơn ông.
* "Hiện nay chúng ta có một số loại hình nghệ thuật dân tộc được thế giới vinh danh. Nhưng đâu phải đợi UNESCO công nhận thì nó mới có giá trị mà đã có giá trị từ trước. Nhưng đó vẫn là cái nhìn của người ngoài, chẳng lẽ chính bản thân dân tộc Việt Nam không biết quý trọng vốn liếng cha ông mình?" * GS, TS Trần Văn Khê là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Ông sinh năm 1921, trong đại gia đình có bề dày hoạt động âm nhạc nên từ nhỏ đã được học cổ nhạc. Năm 1949, ông sang Pháp du học về âm nhạc, làm luận án tiến sĩ âm nhạc - văn học ở ĐH Sorbonne (Pháp). Từ năm 1963, ông dạy tại Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris . Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác... Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, ông trở về nước sinh sống, tiếp tục nghiên cứu, giảng dạy âm nhạc dân tộc và đã hiến tặng cho TP Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc, tài liệu âm nhạc. |
Ảnh trong bài do nhân vật cung cấp.
(Nguồn: http://www.nhandan.com.vn)