Chopin chơi đàn như thế nào?
Dưới đây là một tập hợp các quan điểm đương thời về phong cách chơi đàn của nghệ sĩ piano kiêm nhà soạn nhạc vĩ đại Ba Lan Frederic Chopin, người có các tác phẩm piano được nhiều nghệ sĩ biểu diễn hơn bất cứ nhà soạn nhạc nào trên thế giới.
Chopin là trường hợp độc nhất vô nhị với cây đàn piano. Ông đã chống lại được sự quyến rũ của dàn nhạc, mà theo cách nói của Liszt, để rót đầy hàng trăm trang giấy với mỗi mảnh nhỏ của giai điệu. Ông đã chứng tỏ được rằng có thể tập trung đỉnh cao nhất của thiên tài vào những hình thức nhỏ nhất của âm nhạc. Sự tưởng tượng của ông tràn ngập với những khúc ca đem lại cảm giác đẹp như truyện cổ tích, những giấc mơ ám ảnh nỗi nhớ quê hương, với nỗi sầu muộn bị kìm nén bởi một tâm hồn cao quý. Tác phẩm của ông chỉ có thể được thể hiện bằng những vần thơ của Mickiewicz. Tất cả những nỗi đau đớn của cuộc sống lưu vong, nỗi giận dữ bị ghìm lại, và trong ý thức sâu sắc về những bất hạnh của mảnh đất quê hương, tất cả những quan niệm cao nhất của ông về giới quý tộc Ba Lan cổ đã được phản chiếu với một sự phong phú, và một sự giản dị to lớn loại trừ được tất cả những gì nhấn mạnh quá mức.
Các điệu polonaise đầy sự hùng dũng và tinh thần hào hiệp, gợi ra phong thái cao quý của một trang phong lưu mã thượng; các bản ballade là những ảo ảnh buồn trong quốc phục Ba Lan, diễu binh trước mắt chúng ta; và các điệu Mazurka gợi ra vũ điệu dân tộc của một đất nước vừa vui tươi lại vừa bi thương, tràn ngập không khí của sự thiếu thanh thản và ý thức về phẩm giá.
Đặc điểm chính của sự thiên tài trong Chopin là sự chân thật và tinh thần sôi nổi, chính điều đó đã đem lại cho các sáng tác của ông một bầu không khí đầy hạnh phúc của cảm hứng sáng tạo. Ông hiếm khi cho phép để bản thân mình bị bó hẹp trong hình thức. Tự do của ông trong các tác phẩm đã đem đến ý nghĩ về những cánh đồng rộng mênh mông, nơi tinh thần có thể thoải mái bay lượn mà không bao giờ một tảng đá hay một vách đá nào ngăn cản nổi. Đó là những cánh đồng mà chúng ta dấn thân vào với teskuota và zal (những từ Ba Lan này không thể nào dịch sang được bất cứ một ngôn ngữ nào), với nỗi ân hận không rõ rệt, sự uể oải và những giọt nước mắt đã được âm nhạc và thi ca thấm nhuần.
Những tác phẩm của Chopin đem lại sự biểu cảm với nhiều cung bậc tình cảm, vốn được biểu diễn theo cách thức của ông, đã trưng bày những đặc điểm rõ nét nhất dòng giống của ông. Sự mơ mộng tao nhã, nhưng là một thứ tao nhã nguyên chất, ông lôi cuốn người nghe trong những đường viền khó nắm bắt, không xác định, đầy mơ hồ không ngừng biến chuyển và cả sự duy cảm trong mỗi người.
Chơi đàn theo cách riêng của ông, những đoạn mang tính chất trang trí không bao giờ cản trở độ tinh khiết của các giai điệu. Các vòng quay mang đặc điểm của ông, các đường lượn và những nét trang trí mỏng manh, tất cả đều rõ ràng trong trẻo, không bao giờ làm lu mờ đi ý tưởng chính. Các bản nocturne, valse và impromptu đều vẽ ra cho chúng ta những nét thân thuộc nhất của ông; tinh thần đầy xúc cảm của ông được thể hiện một cách thanh thản và tự nhiên chưa từng có từ trước tới nay; chúng mô cả cuộc sống của ông trong xã hội, nơi “ông tôn thờ một cách say đắm ba người phụ nữ như nhau trong một buổi dạ hội, và thà bỏ chạy còn hơn là phản bội một người trong số đó”, và nỗi sầu muộn sẽ bám lấy ông khi trở về nhà để rồi “như một người đàn bà cuồng loạn, ông sẽ khiến cho chính bản thân mình rơi vào chứng mất ngủ với nỗi xúc động trong ký ức” (Georges Sand). Xúc cảm mạnh mẽ với ông không bao giờ đến từ thứ hiện thực chủ nghĩa buồn tẻ; ông ghê sợ những sức mạnh tàn bạo.
Bất chấp sự khâm phục dành cho Beethoven, ông đã không thích một vài tác phẩm của nhà soạn nhạc Đức thiên tài này. Ông thích các tác phẩm của Schubert nhiều hơn và việc chơi các tác phẩm của Liszt hiếm khi khiến ông hài lòng. Những nhà soạn nhạc yêu thích của ông là Mozart và Bach. Chopin là một tín đồ của nhà soạn nhạc vĩ đại Đức, J.S.Bach. “Vào một buổi sáng, ông ấy đã chơi liền một mạch 14 prelude và fugue của Bach bằng trí nhớ”, madame Streicher đã viết, “và khi tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình với màn trình diễn vô song này, ông đã trả lời: Đó là những tác phẩm không bao giờ tôi có thể quên được”. Khi được hỏi chuẩn bị như thế nào cho một buổi hoà nhạc, Chopin thường trả lời: “Trong vòng hai tuần tôi thường cô lập bản thân mình và chỉ chơi Bach. Đó là chuẩn bị của tôi. Tôi không tập luyện các tác phẩm của mình”. Với sự tôn sùng nhà soạn nhạc vĩ đại và với sự nhận thức rõ rằng các tác phẩm của Bach đã tạo nền tảng vững sắc cho các nhà soạn nhạc, cho các pianist thế hệ sau, Chopin (theo lời kể của Schumann) đã “làm cho bộ Bình quân luật trở thành thứ bánh mỳ hàng ngày” của những hoạt động âm nhạc của mình. “Luôn luôn tập luyện Bach, đó sẽ là phương tiện tốt nhất để tiến bộ”.
Các buổi biểu diễn của ông, theo lời những người cùng thời, hết sức hoàn hảo và phong cách biểu diễn của ông quá đẹp. Nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano bậc thầy người Bohemia, Ignaz Moscheles, đã nói rằng lối trình diễn của Chopin tương đồng với phong thái của ông, cả hai đều thanh nhã và mơ mộng. “Chỉ sau khi nghe anh ấy chơi đàn, Moscheles kể, tôi mới bắt đầu lĩnh hội được thứ âm nhạc của anh. Và hiểu được sự nhiệt tình mà anh khuấy lên trong giới phụ nữ. Khả năng ứng tác anh bao gồm sự biến đổi của nhịp điệu một cách đều đặn, và đó không phải là sự lôi cuốn nhất của anh ấy; những ngón tay của anh ấy lướt đi khắp bàn phím với tốc độ chỉ có trong thần thoại; cây đàn piano của Chopin quá dịu dàng bởi anh ấy không cần thiết phải có những đoạn chơi đầy sức mạnh mới thể hiện được sự tương phản mà anh vẫn hằng khao khát”.
Chopin hiểu thấu những ý tưởng về việc chơi piano. Học sinh của ông thường kể lại rằng, những bài học đầu tiên với Chopin thực sự là một nỗi thống khổ. Lối bấm phím luôn luôn phải chính xác và ngay cả những chi tiết nhỏ nhất không tương ứng với ý kiến của nhà soạn nhạc đều bị khiển trách gay gắt. Cách đặt bàn tay lên phím đàn cũng phải thật duyên dáng và vào cùng thời điểm thuận lợi, Chopin hướng dẫn học trò của mình đặt tay lên bàn phím một cách nhẹ nhàng. Phong cách của ông luôn luôn phụ thuộc vào sự thanh tao của lối bấm phím, và sự giản dị của cách phân nhịp. Ông không ưa những thứ thiếu tự nhiên và tất cả những động tác phô trương.
Một căn phòng trong ngôi nhà của Pleyel có một góc riêng biệt để một chiếc piano nhỏ làm bằng gỗ gụ màu đồng. Đó là chiếc đàn piano của Chopin, trên chiếc đàn này ông đã sáng tác bản Fantasie giọng Fa thứ, Hành khúc tang lễ, bản Scherzo giọng Rê giáng trưởng và nhiều bản prelude, nocturne, mazurka. Các nghệ sĩ đều quan tâm đến chiếc đàn đặc biệt này với sự tôn kính. “Chopin đã chơi một cách sự tao nhã, Felix Mendelssohn nói sau buổi concert đầu tiên của Chopin ở Paris, “nhưng anh ấy chỉ mới trình diễn một chút điều đó từ cây đàn của mình”.
Sau buổi concert đầu tiên của Chopin tại Vienna, trên tờ báo “Wiense Theater-Zeitung” có viết: “Nghệ sĩ đã chơi đàn với cách nhẹ nhàng, tinh tế nhất, những hiệu ứng cảm xúc này sẽ còn được nói nhiều trong giới am hiểu, nhưng lối chơi thiếu hẳn sự hoa mỹ, vốn được coi là không thể thiếu của các nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc”.
Chopin biết rõ về điều này, nhưng vẫn tin tưởng bản thân mình đúng và không bao giờ sửa chữa những thứ bị cho là khuyết điểm này; ở hướng ngược lại, ông đã làm tất cả những gì có thể để ngăn ngừa một “cuộc chiến piano” xảy ra. Liszt đã có lần khuyên Chopin nên trình diễn ở các salon âm nhạc lớn. “Không”, Chopin trả lời, “một đám khán giả đông đảo khiến tôi cảm thấy không thoải mái, nhưng anh có thể thích nghi được với điều đó, bởi vì nếu khán giả không nhiệt tình hưởng ứng thì anh có thể luôn luôn bắt nạt được họ”.
Lenz, một học trò của Chopin, đã có lần lắng nghe người thầy của mình chơi đàn tại lâu đài của nữ bá tước Chérémétiène, chơi những biến tấu từ bản Sonata giọng la giáng trưởng Op. 26 của Beethoven. “Ông ấy chơi tác phẩm đó một cách đáng ngưỡng mộ, Lenz kể lại, tôi cảm thấy kinh ngạc về điều này, nhưng chỉ ở mức độ vẻ đẹp của âm thanh, ở lối chơi đàn, ở sự duyên dáng đầy tinh tế, và sự thuần khiết của phong cách. Nhưng đó không phải là Beethoven; nó quá nhẹ nhàng, quá nữ tính”. Trên đường trở về, người học trò đã thẳng thắn đề cập những gì mình nghĩ với người thầy của mình thì nhận được trả lời: “Tôi chỉ đề xuất, chỉ gợi ý và tôi đưa điều đó cho những thính giả của tôi hoàn thành bức tranh âm nhạc”.
Khi về đến nhà, trong lúc Chopin thay quần áo, Lenz đã cả gan tự chơi chủ đề tương tự của Beethoven trên chiếc đàn piano ở phòng bên cạnh. Chopin lặng lẽ bước sang phòng trong chiếc áo ngắn tay và tiến gần đến cây đàn piano, chăm chú lắng nghe đến hết tác phẩm; sau đó ông đặt bàn tay mình lên vai người học trò bướng bỉnh và nói: “Tôi phải nói với Liszt, điều này sẽ làm cho ông ta thích thú, rằng đó cũng là một cách chơi hay, nhưng có nhất thiết phải trở nên quá khoa trương như vậy không?”
Liszt đã quả quyết rằng bất cứ những gì quá cường điệu trong âm nhạc, văn học và cuộc sống đều khiến làm nảy sinh sự ác cảm sâu sắc cho Chopin. Tempo rubato của Chopin có quá ít điểm chung với các nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc đương thời và cả với thứ “tempo động kinh” của họ, những người chơi các nét trang trí hoa mỹ với sự nhấn mạnh một cách cường điệu. Chopin muốn rubato phải là một thứ hoàn toàn nguyên chất, không rối loạn; bàn tay trái phải giữ nhịp, trong khi tay phải phải chuyển động trong sự tương đồng với ý tưởng.
Một học trò tên Guttman của Chopin từng tuyên bố là lối chơi của Chopin luôn luôn được kiềm chế và nhà thơ vô song của cây đàn piano hiếm khi nhờ cậy đến những âm lượng fortissimo. “Trong khi biểu diễn bản Polonaise giọng La giáng trưởng, ông ấy dứt khoát không sử dụng đến sức mạnh, thứ mà chắc chắn bất kỳ pianist xuất sắc nào cũng thường sử dụng. Ông ấy thường mở đầu pianissimo cho đoạn quãng tám nổi tiếng, và duy trì điều đó cho cuối bản nhạc”.
Chopin không thích tất cả những ấn tượng ồn ào và các “màn pháo hoa” thông thường. Nếu Chopin trỗi dậy từ nấm mồ của mình, ông chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng các tác phẩm của mình đã được nhào nặn thành một thứ bao gồm tất cả những điều này, và đó là một kiểu đường đua phá vỡ mọi kỷ lục tốc độ và là sự hòa trộn của tất cả các phong cách. Chopin chắc hẳn sẽ còn ngạc nhiên hơn khi tìm thấy biết bao nhiêu nỗ lực vô ích và tài nghệ kém cỏi của các nghệ sĩ biểu diễn dành cho tác phẩm của mình. Và một François Couperin của thế kỷ 19 chắc hẳn cũng sẽ ngạc nhiên khi nghe một trong số những điệu valse chuyển soạn cho 14 chiếc kèn clarinet, và những khúc prelude, noturne sẽ là những tác phẩm ngớ ngẩn và tiếng thét đầy buồng phổi bởi những ca sĩ opera Italia.
Thanh Nhàn dịch
(Nguồn: http://www.nhaccodien.vn)