Tốt và hay

30/03/2017

“Hay!” – một từ ngắn gọn thế thôi cũng đủ gói trọn cái lí do xác đáng khiến người thưởng thức yêu thích một nhạc phẩm (cũng như tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung).

Tác phẩm “đánh gục” trái tim người nghe trước hết vì nó hay, vì nó hấp dẫn, rồi từ đó các nhà này nhà nọ mới “giải nén” (nói theo tinh thần cập nhật thời công nghệ tin học), nghĩa là tán lí lẽ dông dài vì sao nó hay.

Một tác phẩm hay có thể rất độc đáo nhờ bản sắc dân tộc, có thể gây ấn tượng nhờ những yếu tố hiện đại, có thể sống bền lâu nhờ chủ đề muôn thuở liên quan tới chữ “nhân” – nhân đạo, nhân quyền, nhân văn, nhân sinh, nhân ái... Song, đậm đà bản sắc dân tộc, hoặc cực kì mới tới mức “sốc!”, hoặc được đánh giá “tốt!” theo tiêu chí định hướng nào đó, chưa chắc đã có được cái thực sự hay, chưa chắc đã làm nên cái để đời cho nền nghệ thuật nước nhà, và cao hơn nữa, cái được xếp hạng tài sản chung của nhân loại.

Định hướng trong sáng tác cốt để có tác phẩm đáp ứng yêu cầu cụ thể, nghĩa là tác phẩm “tốt” theo chuẩn mực của ta trong hoàn cảnh nhất định và “đúng” với tiêu chí đặt ra cho thời điểm trước mắt. Nhìn xa hơn, dài lâu hơn với ước muốn sản phẩm nghệ thuật “made in Vietnam” không chỉ có ý nghĩa trong cộng đồng dân tộc mà còn vươn tới cộng đồng nhân loại, hẳn ta phải tính đến những chuẩn mực trên cả “tốt” cho ta và không chỉ “đúng” với ta. Một khi điều kiện sống đang đổi thay theo chiều hướng đi lên, từ nhu cầu ăn no mặc ấm, tiến tới ăn ngon mặc đẹp, rồi ăn sành mặc điệu, ăn kiêng mặc mode..., thì hà cớ gì mà không nâng cấp món ăn tinh thần từ cái tốt hướng tới cái đẹp, cái hay theo tầm nhìn không hạn định bởi biên giới quốc gia?

Bàn về cái đẹp, cái hay thì vô cùng, vì ý thích mỗi người mỗi khác, thị hiếu muôn màu muôn vẻ. May sao, chính sự không đồng nhất - không thể “quy thành một mối” ấy đã níu giữ nghệ thuật nhân loại khỏi rơi vào tình cảnh đơn điệu, nghèo nàn trong thời đại toàn cầu hóa.

Dù khái niệm “hay” quá mênh mông bể Sở như thế, dù câu hỏi “ai quyết định cái hay đó?” có dẫn dắt tới những ngõ ngách khác nhau đi nữa, thì cuối cùng vẫn tìm ra một đáp án chung: làm ra cái hay còn ai khác nếu không phải người sáng tạo.

Sự sáng tạo trước hết thuộc về nhạc sĩ sáng tác, tiếp đến nghệ sĩ biểu diễn (người sáng tạo thứ hai sau tác giả) và cuối cùng, một phần sự sáng tạo vẫn tiếp diễn trong quá trình cảm nhận của công chúng thưởng thức.

Tuy nhiên, mỗi khi có chuyện đáng phàn nàn về chất lượng tác phẩm, đối tượng bị “quy tội” trước tiên luôn là giới sáng tác, là chủ thể sáng tạo. Thế còn những yếu tố khách quan là môi trường sáng tạo thì sao?

Trong hoàn cảnh chiến tranh trước đây, giới sáng tác luôn được ghi nhận đã làm ra nhiều tác phẩm tốt, phản ánh đúng thời cuộc. Tới nay, quá trình dân tộc hóa phương tiện biểu hiện tiếp nhận từ truyền thống âm nhạc phương Tây vẫn tiếp tục với sự cố gắng không suy giảm. Những thử nghiệm trong mảng ca khúc ngày càng đa dạng hơn. Còn khí nhạc ít được công chúng biết đến nhưng vẫn có những tác giả không hề nản chí sáng tạo, tiếc là phần lớn kết quả đó chỉ để tăng thêm số lượng tổng phổ “cất ngăn kéo”.

Viết khí nhạc tốn nhiều công sức hơn viết bài hát nhưng rất ít cơ hội kiểm chứng hiệu quả xã hội bằng âm thanh thực trước công chúng. Vì thế không thể vờ như ta đang có một môi trường khí nhạc thực sự. Cũng chả trách được các nhạc sĩ trẻ đã tốn công tốn của trong các “lò” đào tạo chính quy rồi vẫn cứ theo nhau rẽ ngang sang con đường kiếm sống “ngon ăn” hơn – sáng tác ca khúc hoặc chuyên phối khí giùm các “ca khúc gia” không tự viết được phần đệm, trong đó có không ít ca khúc thị trường.

Như vậy sự thiếu hụt đáng ngại ở đây đâu phải là cái tâm nhạc sĩ (chủ thể) mà là môi trường sáng tạo (khách quan). Môi trường lí tưởng nhất là sự đảm bảo cho người sáng tác điều kiện tốt cả về tinh thần cũng như vật chất. Về tinh thần họ cần quyền tự do sáng tạo, cần sự khuyến khích sáng tạo cá nhân. Những “cái tôi” tác giả càng được tin tưởng và khích lệ thì càng tự giác và có trách nhiệm với chất lượng sản phẩm làm nên thương hiệu cho tên tuổi mình (nói theo giọng thời kinh tế thị trường). Và rất tự nhiên, mỗi cái tôi sáng tạo đều cho thấy theo cách của mình những phẩm chất được hấp thụ qua môi trường sống, như cội nguồn dân tộc và dấu ấn thời đại. Về vật chất thì quá rõ, “cơm áo không đùa với khách thơ”, khi thù lao đảm bảo cho điều kiện sống, hẳn người viết không buộc phải “làm hàng chợ” và toàn tâm toàn ý hơn trong sáng tạo nghệ thuật.

Nói tới giới biểu diễn, sẽ rất hồ đồ nếu lấy cát-xê ngất ngưởng của các nàng diva ca nhạc làm chứng cho sự hiện hữu môi trường tuyệt hảo đối với nghề diễn. Chỉ cần liếc qua các mặt báo cũng thấy rõ mối quan tâm dành cho nghệ sĩ nặng về hình thức, thời trang, nhà cửa, sinh hoạt, lối sống... Tóm lại, quá nhiều câu chuyện bên lề của các ngôi sao ca nhạc giải trí, quá ít những vấn đề bức thiết như thù lao của nghệ sĩ biểu diễn các loại hình âm nhạc không ăn khách.

Lại nói thêm về cái tâm, trong giới biểu diễn loại nhạc kén khách, ai mà chẳng mơ vươn tới đỉnh cao niềm tự hào dân tộc trong việc đưa nhạc truyền thống Việt Nam, nhạc cổ cũng như nhạc mới, tới công chúng “nội” cũng như “ngoại”. Việc duy trì thường xuyên các chương trình nhạc cổ truyền hoặc nhạc giao hưởng thính phòng Việt Nam không thể lệ thuộc vào doanh thu, mà trông vào kinh phí bao cấp thì... Thế là dù có tâm vẫn cứ lâm vào cảnh “cái khó bó... tay!”.

Công chúng cũng là đối tượng bị trách cứ nhiều vì “cái tội” quay lưng lại với nhạc cổ truyền và nhạc giao hưởng thính phòng. Không biết và không hiểu, làm sao có thể yêu thích được những thể loại cứ phải động não khi nghe, trong lúc người ta chỉ muốn được giải trí đơn thuần để giảm bớt áp lực của nhịp sống lúc nào cũng hối hả quay cuồng này.

Thực ra vẫn có không ít người muốn tiếp cận, muốn tìm hiểu nhạc cổ truyền dân tộc, cũng như nhạc giao hưởng thính phòng mà không có điều kiện đó thôi. Chẳng công bằng chút nào nếu ta chỉ biết đổ lỗi cho công chúng (nhất là giới trẻ), khi mà họ sinh ra và lớn lên không trong một môi trường thuận lợi cho sự phát triển khả năng cảm thụ những loại nhạc đang ngày càng trở nên khó cảm thụ. Môi trường ấy rất khó tạo dựng khi còn vô số thiếu hụt trong mọi phương diện, kể từ chương trình giáo dục phổ thông đến sân khấu “nhạc sống”, phát thanh truyền hình, mạng internet, phát hành báo chí, văn hóa phẩm...

Xét đến sự tác động vào cảm thụ âm nhạc của công chúng, các nhà lí luận phê bình âm nhạc – cầu nối giữa tác phẩm và người nghe – khó mà “thoát tội”. Nhưng thử ngẫm xem họ đã thực sự được cần đến chưa?

Báo chí chỉ chuộng những bài viết trước sự kiện theo kiểu cập nhật thông tin (nhiệm vụ của phóng viên, nhà báo), còn bài đánh giá sau chương trình biểu diễn (công đoạn của phê bình chuyên ngành) luôn bị gạt đi với lí do quá ư là dễ hiểu: diễn rồi, chuyện qua rồi còn đăng làm gì!

Không có lời dẫn giải cần thiết cho những chương trình biểu diễn nhạc cổ hoặc nhạc mới không lời. Vẽ chuyện, ai muốn nghe chứ!

Không đâu đặt hàng, khuyến khích xuất bản những cuốn sách liên quan đến nhạc không lời, đến bình luận và phân tích giá trị tác phẩm. Vớ vẩn, ai thích đọc chứ!

Tóm lại, dù biết có quá nhiều thứ cần làm đi nữa, đa số các nhà lí luận chuyên ngành vẫn tặc lưỡi: viết làm gì vì đâu có dễ đăng tải và nhuận bút chất xám thì cứ như một nghịch lí, khơi làm gì những “sự thật mang vị thuốc đắng” rồi chẳng có tác động gì ngoài rắc rối cho chính mình.

Trong môi trường thuận ít nghịch nhiều, nếu không quá say sưa buộc tội thì thể nào ta cũng nhận thấy thiện chí ở mọi đối tượng sáng tạo - người viết, người diễn, người nghe và cả người dẫn. Chỉ có điều, những cố gắng không đồng bộ khó đem lại hiệu quả mong muốn, khác nào một dàn nhạc không thể chơi hay nếu thiếu nhạc trưởng tài và chỉ dựa vào nỗ lực đơn lẻ kiểu mạnh ai nấy làm.

Khỏi bàn nhiều lời về vai trò “nhạc trưởng” của người quản lí, vì hiển nhiên như một chuỗi phản ứng dây chuyền: nhà quản lí có tài, có tâm, có tầm luôn tìm cách tạo ra môi trường tốt cho người sáng tạo, có môi trường tốt mới sinh ra nhân tài để có được tác phẩm xuất chúng.

Thế đấy, muốn có nhạc phẩm hay chẳng còn cách nào hơn là đem đến cho người sáng tạo môi trường thuận lợi nhất. Và điều trông đợi nhất của những cá thể sáng tạo vào “cây đũa chỉ huy” của nhà quản lí không ở định hướng cho tác phẩm tốt, mà là những việc làm thiết thực để tạo môi trường tốt cho tác phẩm hay.

Tin liên quan

27/08/2020
Sách Hình thức Hình thức âm nhạc* là một công trình có nhiều công phu sáng tạo và khoa học. Tác giả phải đọc nhiều tập sách âm nhạc, trải qua hàng ngàn bài hát để ...
10/08/2020
Nhiệt liệt chúc mừng tất cả các nhạc sĩ hội viên dự Đại hội nhiệm kỳ X Hội Nhạc sĩ Việt Nam! Thưa các bác, các anh, các chị - những người bằng tài năng củ...
08/08/2020
(Tại Đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2020-2025) Hà Nội, ngày 07 tháng 8 năm 2020 Thưa các vị đại biểu, các nhạc sĩ cùng toàn thể các đồng chí! Hôm nay, tôi rất vui ...
03/08/2020
Mặc dù phim "Trưng Vương" vẫn đang trong quá trình thực hiện nhưng ca khúc "Còn gì để mất" (OST phim ngắn giới thiệu nữ tướng Bát Nàn) đã có mặt trong danh sách bảng xếp hạng Billboard là mộ...