Đạo tặc khoa học - Hãy coi chừng... "Lưu danh" muôn đời!!!
1. Mùa Hạ năm 2004, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia VN khi đó gọi là Viện Văn hóa thông tin tiến hành lập hồ sơ Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đệ trình UNESCO vinh danh. Viện đã mời GS-TSKH Tô Ngọc Thanh làm cố vấn đặc biệt của dự án. Ông vừa là cựu Viện trưởng, vừa là người thầy của tất cả anh em chúng tôi. Lúc đó, ngoài ông ra, cả Viện gần như không biết gì hay chỉ hiểu đôi điều lỗ mỗ về nền nghệ thuật kỳ vĩ của Trường Sơn. GS Thanh là người trực tiếp chỉ đạo chúng tôi cách thức tiến hành điền dã thu thập dữ liệu trên Tây Nguyên. Và, mấy tháng ròng sau đó, ông cũng trực tiếp chỉ đạo việc dựng phim tư liệu cũng như chấp bút viết bản báo cáo khoa học cho bộ hồ sơ di sản. Khi GS Thanh viết xong, đã gửi ngay file bản thảo cho Viện trưởng - lúc đó là ông Nguyễn Chí Bền.
2.Trước đó, ông Bền đã sai nhân viên sưu tầm hệ thống tài liệu viết về cồng chiêng trên các sách, báo, tạp chí, cho đánh máy lại toàn bộ rồi chuyển file vào máy tính của Viện trưởng. Và, trên bản hồ sơ gốc mà GS Thanh đã chấp bút, ông Bền dùng thủ thuật copy/paste, lần lượt xào xáo các nghiên cứu của người khác, “đắp điếm” thêm cho bản báo cáo khoa học… Thời gian đó, một lần vào phòng Viện trưởng làm việc, tôi đã tình cờ chứng kiến “cách viết” này khi vô tình nhìn vào máy tính của ông ta... Thú thực lúc đó, tôi cũng khá ngạc nhiên vì chưa thấy ai làm thế bao giờ?! Lại trộm nghĩ, Viện trưởng liều thật, không biết gì về cồng chiêng mà dám chấp bút..!
3.Cuối năm 2005, ngay sau khi cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO vinh danh, viện trưởng Nguyễn Chí Bền đã nhanh chóng “tóm tắt” bản báo cáo khoa học của hồ sơ thành chuyên luận của riêng mình nhan đề “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” - đăng trên Tạp chí Văn hóa tư tưởng, số 2/2006. Và sau đó mấy tháng, ông ta đã in lại chuyên luận này trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam - như thể đó là công trình nghiên cứu của PGS-TS Nguyễn Chí Bền.
Cuốn sách đạo văn của PGS-TS Nguyễn Chí Bền
4.Hành vi đạo tặc khoa học trắng trợn của Viện trưởng Chí Bền đã nhanh chóng bị nhiều người phát hiện ngay sau khi cuốn sách phát hành. Điều này thực ra cũng dễ đoán, vì một người học sư phạm văn như ông Bền, sao có thể trở thành một chuyên gia về cồng chiêng nhanh đến thế??? Và ngay cuối năm đó, nhà phê bình Nguyễn Hòa (Báo Nhân dân) - người được giới nghề mệnh danh là “Khắc tinh của tiến sĩ giấy” đã chính thức lên tiếng về vụ việc. Bài viết của anh Nguyễn Hòa đăng trên báo Thể thao & Văn hóa số 145, ra ngày 5.12.2006. Dưới đây là bản gốc:
PGS-TS Nguyễn Chí Bền tiếp tục “đạo văn” - Nguyễn Hòa
Quãng 10 năm trước, trên báo Thể thao & Văn hoá, tôi đã một lần “gặp gỡ” tên tuổi của ông Nguyễn Chí Bền trong danh sách tác giả của một cuốn sách “đạo văn” có tên gọi là Cơ sở văn hóa Việt Nam , và hôm nay, tôi lại gặp ông trong một tình huống éo le khác...! Cầm trên tay cuốn sách dày 1.018 trang của PGS-TS Nguyễn Chí Bền có nhan đề Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam do NXB Khoa học xã hội phát hành năm 2006, ít nhiều tôi cũng thấy vì nể và tự hỏi để viết một cuốn sách như thế, tác giả đã phải lao tâm khổ tứ đến mức nào? Nhưng đọc rồi tôi lại thấy phần lớn những “nghiên cứu” của ông không có gì mới mẻ, thêm vào đó, cái “sự vụ” Nguyễn Chí Bền từng có tên trong danh sách tác giả của cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam “đạo văn” vô tội vạ và vẫn ngang nhiên tái bản nhiều lần trong cả chục năm nay để làm giáo trình bộ môn cho sinh viên các trường đại học lại càng làm cho tôi đọc cuốn sách của Nguyễn Chí Bền với tâm thế nghi ngờ. Và rồi sự nghi ngờ ấy xem ra là có cơ sở, đơn cử bài tiểu luận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, từ trang 927 đến trang 942 của cuốn sách, vì bài viết này làm tôi nhớ tới một tài liệu nghiên cứu của GS-TSKH Tô Ngọc Thanh. Chẳng là mấy năm trước, do muốn tìm hiểu tại sao Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của văn hóa nhân loại, tôi đã đọc bản hồ sơ Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên gồm 25 trang do GS-TSKH Tô Ngọc Thanh viết. Đọc hồ sơ này, tôi càng khẳng định đúng là “danh bất hư truyền” khi trong giới nghiên cứu văn hóa coi GS-TSKH Tô Ngọc Thanh là một chuyên gia hàng đầu về văn hóa dân gian Tây Nguyên, đặc biệt là trong lĩnh vực âm nhạc. Điều đó là chính xác, các cơ quan hữu trách đã chọn đúng người, đúng việc để làm nên bản hồ sơ này, vì nghiên cứu cồng chiêng Tây Nguyên mà không có kiến thức về văn hóa dân gian Tây Nguyên, không am hiểu về âm nhạc Tây Nguyên thì nghiên cứu cũng như không, và tôi tin đây cũng là các phẩm chất nằm ngoài khả năng nghiên cứu của hoá Nguyễn Chí Bền. Vậy mà oái oăm thay, nhiều nội dung quan trọng của bản hồ sơ lại xuất hiện trong tiểu luận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của PGS-TS Nguyễn Chí Bền sau khi đã được ông mông má, lắp ghép, tu sửa khá tinh vi. Do tiểu luận nghiên cứu nói trên có quá nhiều đoạn mông má, lắp ghép, tu sửa từ văn bản của GS-TSKH Tô Ngọc Thanh nên ở đây tôi chỉ xin giới thiệu vài đoạn:
1a. PGS-TS Nguyễn Chí Bền viết: “Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với cái tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa chiêng thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: gõ, gò theo hình vảy tê tê và gõ gò theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên những điểm khác nhau quanh tâm điểm là một phát hiện vật lý đúng đắn, mặc dầu trình độ phát triển xã hội xưa của người Tây Nguyên chưa biết đến vật lý học” (Sđd, tr.929).
1b. GS-TSKH Tô Ngọc Thanh viết: “Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với cái tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa chiêng thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên những điểm khác nhau quanh tâm điểm là một phát hiện vật lý đúng đắn, mặc dầu trình độ phát triển xã hội xưa của người Tây Nguyên chưa biết đến vật lý học” (Tlđd, tr.8).
2a. PGS-TS Nguyễn Chí Bền viết: “Người nghệ nhân Tây Nguyên đánh chiêng theo hai cách chính; dùng nắm tay đấm hay dùng dùi gõ vào chiêng. Với cồng núm nắm tay chỉ đấm vào núm mới có tiếng trong, vang. Nhưng với chiêng bằng thì nắm đấm luôn phải đấm vào một điểm giữa tâm và vành ngoài của mặt phải chiêng. Có ba loại dùi: cứng, mềm và bọc vải hoặc da. Dùi bọc vải thường dùng cho cồng núm tạo ra một âm thành tròn, mềm. Dùi cứng và dùi gỗ mềm không bọc vải thường dùng cho chiêng bằng, gõ vào tâm mặt trong của chiêng. Tùy từng tộc người và tùy theo yêu cầu nghệ thuật của bài chiêng mà người ta dùng bàn tay xoa vào, đặt vào mặt trong của chiêng bằng, hoặc dùng các ngón tay chặn trên vành ngoài của chiêng. Cũng có nghệ nhân dùng cùi tay chặn vào mặt chiêng bằng. Các cách ngắt chiêng khác nhau đã cho những sắc thái âm thanh phong phú, làm tăng thêm sức diễn cảm và vẻ độc đáo của bài nhạc chiêng. Cồng chiêng là nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Như thể, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng cho nó. Trong mỗi nghi lễ, lại có thể có nhiều công đoạn có nhạc chiêng riêng. Chẳng hạn, người ngành Aráp dân tộc Gia Rai ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc Lắc có các bài chiêng cho các lễ sau đây: đâm trâu, khóc người chết trong tang lễ, bỏ mả, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa gặt. Ngoài ra cũng còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khỏe, v.v... Các bài chiêng cũng đã đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng huống tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ. Chẳng hạn chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn. Chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi. Chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã, v.v..”. (Sđd, tr.931 - tr.932).
2b. GS-TSKH Tô Ngọc Thanh viết: “Người nhạc công Tây Nguyên đánh chiêng theo hai cách chính; dùng nắm tay đấm hay dùng dùi gõ vào chiêng. Với cồng núm nắm tay chỉ đấm vào núm mới có tiếng trong, vang. Nhưng với chiêng bằng thì nắm đấm luôn phải đấm vào một điểm giữa tâm và vành ngoài của mặt phải chiêng. Có ba loại dùi: cứng, mềm và bọc vải hoặc da. Dùi bọc vải thường dùng cho cồng núm tạo ra một âm thành tròn, mềm. Dùi cứng và dùi gỗ mềm không bọc vải thường dùng cho chiêng bằng, gõ vào tâm mặt trong của chiêng. Tuy nhiên trong quá trình hòa tấu mỗi tiếng chiêng vang lên xong lại phải được ngắt đi. Nếu không thì các bồi âm của chiêng đó sẽ làm nhiễu các âm của các chiêng tiếp theo. Tùy từng tộc người và tùy theo yêu cầu nghệ thuật của bài chiêng mà người ta dùng bàn tay xoa vào, đặt vào mặt trong của chiêng bằng, hoặc dùng các ngón tay chặn trên vành ngoài của chiêng. Cũng có nghệ nhân dùng cùi tay chặn vào mặt chiêng bằng. Ngắt tiếng ở cồng núm khó hơn vì cồng núm có hệ bồi âm lớn và độ lan truyền dài hơn. Nhạc công phải tỳ đùi hay lấy tay bịt trực tiếp vào đỉnh núm hay chân núm mới được. Các cách ngắt chiêng khác nhau đã cho những sắc thái âm thanh phong phú, làm tăng thêm sức diễn cảm và vẻ độc đáo của bài nhạc chiêng. Là nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Như thể, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng cho nó. Trong mỗi nghi lễ, lại có thể có nhiều công đoạn có nhạc chiêng riêng. Chẳng hạn, người Gia Rai Arap ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc Lắc có các bài chiêng cho các lễ sau đây: Đâm trâu - Bỏ mả - Mừng nhà rông mới - Mừng chiến thắng - Khóc người chết trong tang lễ - Lễ xuống giống - Lễ cầu an cho lúa - Mùa gặt. Ngoài ra cũng còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khỏe v.v... Các bài chiêng cũng đã đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng huống tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ. Chẳng hạn chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn. Chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi. Chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã v.v..”. (Tlđd, tr.10 - tr.11)...
Quá kinh ngạc về các kỹ xảo của PGS-TS Nguyễn Chí Bền, tôi đã liên lạc với GS-TSKH Tô Ngọc Thanh, được ông xác nhận ông đích thực là chủ sở hữu của văn bản này và tôi đã nhanh chóng có trong tay bản gốc được soạn thảo trên máy vi tính. Như vậy ở đây có hai câu hỏi đặt ra: Một là sau khi công bố, văn bản của GS-TSKH Tô Ngọc Thanh đã trở thành sản phẩm “văn hóa dân gian” nên ông Nguyễn Chí Bền có thể “khai thác” tuỳ ý? Hai là ông Nguyễn Chí Bền đã “đạo văn” từ văn bản của GS-TSKH Tô Ngọc Thanh, mà sự can thiệp theo lối mông má, tu sửa, lắp ghép một cách có ý thức của ông đã cho phép tôi đặt ra câu hỏi thứ hai này. Dẫu sao thì theo tôi, PGS-TS Nguyễn Chí Bền vẫn cần thiết đưa tên ông ra khỏi vai trò tác giả của bài tiểu luận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, bởi lẽ đa số tri thức có tính cách “nghiên cứu” trong tiểu luận này không phải là tài sản của riêng ông. Viết đến đây, tôi lại thấy khôi hài khi nhớ tới phần Lời thưa trước của cuốn sách Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, ông Nguyễn Chí Bền viết rằng: “Cuốn sách sẽ góp thêm một tiếng nói nhỏ nhoi vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa dân gian vốn đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, để làm rõ thêm một số vấn đề của văn hóa dân gian hiện nay”, vì cứ như các nghiên cứu trong tiểu luận tôi đã đề cập thì ông chỉ góp phần “làm mờ ảo thêm” chứ làm sao “làm rõ thêm một số vấn đề của văn hóa dân gian hiện nay” được!
5.Một năm sau, trong lá đơn của một vị TS trưởng ban chuyên môn ở Viện Văn hóa thông tin “dự định” gửi lên Bộ trưởng kiện ông Nguyễn Chí Bền (ngày 12/ 12/ 2007) có đoạn viết “…Do không có học vấn căn bản (được cấp bằng TS đặc cách, ngắn hạn, không biết một ngoại ngữ nào) lại cộng thêm việc thiếu tinh thần và ý chí tự học, nhưng lại muốn tiến nhanh trên con đường học thuật và công danh, nên ông Nguyễn Chí Bền đã mắc phải tội đạo văn. Đây không phải là lỗi vô tình một lần mà được lặp lại một cách có hệ thống. Về vấn đề này, đã có những bài viết trên báo viết và trên mạng internet phân tích khá khách quan và chính xác, chúng tôi xin phép không nhắc lại ở đơn này nữa. (Xin xem phụ lục số 1,2, 3). Nguyễn Chí Bền đạo văn của nhiều học giả khác nhau, ngang nhiên dùng ngân sách Nhà nước in ấn các tác phẩm ăn cắp đứng tên mình - đó là hiện tượng nổi cộm trong dư luận xã hội suốt năm qua...
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Bộ!
…Khi Viện nhận nhiệm vụ triển khai các dự án lớn, ông Bền thường triệu tập các nhà chuyên môn để lấy ý kiến đóng góp ở từng mảng miếng tri thức khác nhau. Rồi sau đó nhanh chóng tập hợp trong một đề án chung đứng tên ông ta làm Chủ nhiệm. Xin lấy các dự án cồng chiêng Tây Nguyên và Quan họ Bắc Ninh làm ví dụ điển hình. Khi họp triển khai, ông Bền thường tuyên bố kiểu tôi không biết gì về vấn đề này, các anh các chị phải bắt tay vào nghiên cứu thực địa, tôi sẽ chỉ đạo chung thôi. Rồi sau đó, ông ta rất nhanh chóng biến ý tưởng cũng như kết quả sức lao động của người khác thành của mình. Việc Nguyễn Chí Bền rút lõi bản Báo cáo khoa học của bộ hồ sơ Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (phần do GS-TSKH Tô Ngọc Thanh viết) để công bố riêng như “tác phẩm riêng” của mình là một minh chứng lớn nhất cho thói quen cướp công của khác. Với quyền lực Viện trưởng, ông Bền luôn chiếm lấy quyền điều khiển những dự án khoa học quan trọng, trong khi ông ta không hề có chút hiểu biết nào về những đối tượng nghiên cứu đó”.
6.Tội danh đạo tặc khoa học của PGS-TS Nguyễn Chí Bền về sau được in trong cuốn sách Bàn phím và cây búa do NXB Văn học ấn hành cuối năm 2007. Đây là một tập sách của nhà phê bình Nguyễn Hòa - được coi là gây “nóng bỏng” trong giới nghiên cứu và phê bình Việt Nam.
Cuốn sách chống đạo văn của nhà phê bình Nguyễn Hòa
7. Bài PGS-TS Nguyễn Chí Bền tiếp tục “đạo văn” ngay sau khi đăng tải trên báo Thể thao & Văn hóa đã trở thành tâm điểm của một chủ đề nóng hổi có tên Ô hô, lại có bác đạo văn trên diễn đàn Trái tim Việt Nam online. Nội dung chủ đề diễn đàn thể hiện thái độ/ dư luận mạng xã hội trước vấn nạn đạo tặc khoa học và ngang nhiên lợi dụng chức quyền trù dập cán bộ của Viện trưởng Nguyễn Chí Bền, kéo dài 2 năm liền với dung lượng 100 trang diễn đàn:
http://ttvnol.com/threads/o-ho-lai-co-bac-dao-van.291971/
(Còn tiếp)
B.T.H
Ban Nghiên cứu Nghệ thuật
Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam