Ngọn đèn đứng gác - Chính Hữu - Hoàng Hiệp
Trên đường ta đi đánh giặc
Dù về Nam hay ta lên Bắc, ở đâu cũng gặp
Những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu.
Nhà thơ Chính Hữu, tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông chào đời ởVinh năm 1926 và gắn bó với Hà thành khi học, Trường trung học Văn Lang ở phố Lý Quốc Sư. Đỗ tú tài phần thứ nhất, ông tiếp tục học lên Trường Lu-i Pat-xtơ, lấy bằng tú tài toàn phần.
Đó cũng là lúc ông được tuyên truyền và tham gia đảng Dân chủ. Sau khi tất nghiệp, ông theo tiếng gọi của thành phố Vinh, nơi ông đã gắn bó tuổi thơ và có người cha làm việc ở đó, để tuyên truyền đường lối cứu nước của Việt Minh, tham gia khởi nghĩa và đảm trách Bí thư Thanh niên cứu quốc thành phố Vinh.
Ngọn đèn đứng gác - (Hoàng Hiệp) - Quý Dương
Những ngày Hà Nội chuẩn bị kháng chiến, ông trở lại Hà Nội, cùng anh em ở phố Nhà Thờ đào hào đắp ụ, củng cố Đại đội tự vệ Hàng Gai thuộc khu Đông Thành của Liên khu I
Nhưng rồi cái tướng văn của chàng thư sinh đã khiến ông Hoàng Đức Nghi mà tôi vẫn nghe anh em gọi thân mật là Nghi gù "duyệt" ngay ông vào Ban Tuyên truyền, làm báo Chiến thắng của Liên khu I.
Bà Lê Thi, con gái giáo sư Dương Quảng Hàm, khi đó cùng trong Ban tuyên truyền kể: "Chúng tôi ở luôn trụ sở của Uỷ ban kháng chiến Liên khu tại hiệu Đức Bảo, (phố Hàng Bạc), do anh Lê Trung Toản làm Chủ tịch ủy ban. Bộ phận làm báo Chiến thắng ở trên gác hai. Dưới nhà là nơi hội họp chung và để máy in, có hai anh thợ chuyên in litô.
Ơ… những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ tắt
Như miền Nam hai mươi năm không đêm nào ngủ được
Như cả nước với miền Nam đêm nào cũng thức.
Anh Chính Hữu và anh Đinh Nhật Hiển (tức Nguyệt) vốn cùng ở nhà trọ phố Lý Quốc Sư hồi học trường Văn Lang viết bài và tin. Tờ báo chỉ nhỏ bằng tờ giấy A4 bây giờ, nhưng lại thật sự là người bạn của cán bộ, chiến sĩ. Chúng tôi mang đến từng đại đội phát cho anh em. Những tin chiến thắng nóng hổi đã cổ vũ động viên họ thi đua lập công đánh giặc".
Bài thơ "Thủ đô huyết thệ” của chiến sĩ Trịnh Đình Báu đăng trên báo đã có sức mạnh vô cùng cổ vũ đồng đội chắc tay súng trong khói lửa, nhà siêu, tường đổ... Những con chữ mải miết chạy trên trang giấy khi bên ngoài, tiếng súng các cỡ; tiếng máy bay spítphai gầm rú, cháy rụi bởi súng tầm thấp trên nóc nhà phố Hàng Quạt của tiểu đội Bạch Ngọc Liễn và Tạ Doãn Địch.
Tâm hồn đa cảm của ông đã khắc sâu bao hình ảnh đồng đội ngã xuống; đêm ra đi qua gầm cầu Long Biên ngoái đầu nhìn lại phố phường thân yêu đỏ rực mà lòng đau buốt. Những ai đã quyết tử với quân thù cho đến ngày 17-2-1947 sẽ không bao giờ quên, trong đội hình lui quân, Tiểu đoàn 103 đi sau cùng có nhiệm vụ đốt lửa để nghi binh quân địch
Ký ức ấy sống dậy trong ông những ngày Trung đoàn Thủ đô đang đóng quân ở Đại Từ: "Nhớ biết bao những mái nhà hoang / Bức tường đổ điêu tàn ta từng trấn giữ / Đêm ta ra đi đất trời bốc lửa / Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng". Không chỉ là thơ mà còn là lời gan ruột của người cán bộ Trung đoàn Thủ đô đã trải qua 60 ngày chiến đấu trong vòng vây của kẻ thù mới có được những câu bi hùng rung động cả tâm hồn như thế.
Bài thơ đã đi vào trái tim những người con Hà Nội đang xa nhà, xa phố phường thân yêu. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác đã từng là chiến sĩ của Đại đội Hàng Gai kể: “Ra hậu phương, tôi mới gặp anh Chính Hữu. Anh ấy sáng tác bài thơ khi Trung đoàn đang ở Đại Từ (Thái Nguyên). Đói, rét, thiếu thốn tất cả từ bát cơm, manh áo. Bài thơ gợi lại trong chúng tôi những ngày máu lửa oanh liệt trên phố phường mà lòng đầy nhớ nhung mái nhà, đường phố thân quen. Giữa năm 1947, tôi phổ nhạc và sau đó, tôi thường vừa đàn ac-coóc-đê-ông vừa hát; đôi khi tôi song ca với Trần Chất trong những dịp tố chức văn hóa, văn nghệ của Trung đoàn".
Năm 1948, làng Thơ biết đến Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí", và cho đến nay, đó vẫn là một trong số những bài thơ hay nhất viết về người lính trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi yêu những câu thơ thật dung dị, mộc mạc nói về người nông dân mặc áo lính mà cũng thật lãng mạn và sâu lắng trong bài "Đồng chí".
Đồng chí - (Minh Quốc) - Cao Minh
Áo anh rách vai, quần tôi có hai mảnh vá
Miệng còn cười buốt giá chân không giày
Thương nhau ta nắm lấy bàn tay
Đêm nay rừng hoang sương muối
Nằm kề bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo
Nhưng rồi lại một lần nữa, ông đã thấm vào máu thịt cái hồn của phố Hà Nội nên mới có những câu thơ xuất thần “Mái buồn nghe sấu rụng" trong bài “Đêm Hà Nội" tuyệt mỹ đến vậy. Đó là thời gian các văn nghệ sĩ sáng tác phục vụ cho chủ trương tổng phản công, chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô, Nguyễn Đình Thi có “Hà Nội đêm nay”, Văn Cao có “Tiến về Hà Nội".
Nhưng ông đã tạo được nét thơ riêng của mình với cảm xúc dồn nén mà vẫn đẹp trong hình tượng thơ. Sau này, ông tâm sự với bạn đọc: "Tôi thích những câu thơ hàm súc, nói rất ít nhưng gợi rất nhiều những ý tưởng lan xa. Tôi tự xác định mình chỉ nên là và chỉ có thể là một người là thơ nghiệp dư, để có thể tự do. Để tự do, chỉ viết những điều nội tâm mình thôi thúc phải viết , và tự do huỷ bỏ những cái viết ra nhưng không vừa ý".
Đó là phẩm chất vô cùng quý giá của nhà thơ, khi ông phải đảm đương công tác quản lý của công tác Tuyên huấn trong quân đội và của Hội Nhà văn, lo nhiều việc đại sự và nhiều khi, thật khó để có được, dành ra được khoảng trời tự do cho Thơ.
Với tài năng và cá tính riêng, những năm cả nước chống Mỹ, Chính Hữu lại xuất thần với một chùm thơ “Trang giấy học trò”, "Có những ngày vui sao”, “Ngọn đèn đứng gác" in đậm dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Vậy rồi, hồn thơ của ông vẫn chung thuỷ trở về mạch nguồn - kỷ niệm với đồng chí, đồng đội Trung đoàn Thủ đô đầy trong trẻo, gắn bó keo sơn với “Những chiến luỹ chặn ngang / Những con đường / Như những khúc ruột / Bị chặt đứt / Quặn đau mà đẻ ra trung đoàn " (Kỷ niệm Trung đoàn).
Trò chuyện trong buổi chiều đông cuối năm 2008, bà Nguyễn Thị Xuân Lịch, vợ nhà thơ cho tôi biết: "Cuốn nhật ký của Chính Hữu đã giúp nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tìm hiểu thực tế chiến đấu của Trung đoàn với những cán bộ có tài như Vũ Yên, Vũ Lăng, Siêu Hải, Hoàng Phương và xây dựng nhân vật Loan trong tác phẩm "Sông mãi với Thủ đô”. Với việc sáng tác thơ, ông không bao giờ vội vàng chạy theo cảm xúc mà thường "ngâm" rất lâu bản thảo, phải khi nào thật vừa ý mới cho đăng. Ông đã về cõi vĩnh hằng với tâm thế thanh cao của người đã dâng hiến hết mình cho văn học, nghệ thuật và cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt hai), năm 2000 cho tác phẩm “Đầu súng trăng treo" Huân chương Độc lập hạng Nhì của Đảng và Nhà nước trao tặng cho ông là phần thưởng cao quý cho nhà thơ. Nhưng mỗi dịp kỷ niệm kháng chiến toàn quốc, nghe cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô hát bài Ngày về, tôi hiểu, đó chính là điều còn lại cuối cùng của người sáng tác văn học nghệ thuật trong mạch sống - Cây Đời.
Năm 2006, kỷ niệm 60 năm ngày Toàn quốc kháng chiến, lần đầu tiên, tôi được nghe các cựu chiến binh - những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô năm xưa, Huân, Huy chương lấp lánh trên ngực ca vang bài hát “Ngày về” tại Nhà văn hóa Thông tin thành phố. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác hứng khởi hát cùng đồng đội.
Âm hưởng vừa hào hùng, vừa bi tráng của bài hát cuốn tôi vào không khí của các chiến sĩ, rất tự hào đã từng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Thật tiếc, nhà thơ Chính Hữu, tác giả của bài thơ “Ngày về" đang phải chiến đấu chống lại bệnh tật. Và khi tôi tìm đến ông để viết bài này thì ông đã đi vào cõi vĩnh hằng mùa đông năm 2007, để lại bao tiếc thương cho đồng chí, đồng đội và những bài thơ hàm súc mà lấp lánh còn mãi trong lòng bạn yêu thơ, yêu nhạc.
Sinh thời, nhà thơ Huy Cận đã viết tặng ông: "Một đời đầu súng trăng treo / Hồn thơ đeo đẳng bay theo chiến trường / Tiếng lòng trong đọng hạt sương / Cánh hoa chiến địa mà gương tâm tình / Cho hay thơ ở lòng mình / Trăng hay súng vẫn bóng hình người thơ”.
(Nguồn: http://baicadicungnamthang.net)