Một số phương pháp dạy hát ca khúc mang âm hưởng Chèo
Ca khúc mang âm hưởng Chèo là những ca khúc được kết hợp giữa âm nhạc Châu Âu du nhập vào Việt Nam với những làn điệu Chèo hay sử dụng chất liệu của làn điệu Chèo. Ca khúc mang âm hưởng Chèo đã khẳng định và có chỗ đứng trong lòng người nghe bởi nó mang hơi thở của thời đại mà vẫn giữ được những giai điệu truyền thống của quê hương. Hiện nay, các ca khúc mang âm hưởng Chèo đã được sử dụng rộng rãi và được đưa vào giáo trình đào tạo của các trường nghệ thuật chuyên nghiệp trên toàn quốc trong việc giảng dạy thanh nhạc và được coi một trong những thể loại ca khúc Việt Nam.
Để hát tốt được những ca khúc mang âm hưởng Chèo, việc đầu tiên đòi hỏi người hát phải có sự kết hợp tốt giữa kĩ thuật thanh nhạc mới với kĩ thuật hát Chèo. Trên thực tế, kĩ thuật thanh nhạc mới và kỹ thuật hát Chèo có rất ít điểm chung và mỗi kỹ thuật lại hướng đến một tiêu chí riêng. Ví dụ như: khẩu hình thanh nhạc mới là khẩu hình mở rộng theo hướng dựng đứng còn khẩu hình hát Chèo hẹp và mở ngang; thanh nhạc mới là cộng minh trên toàn âm vực với âm thanh dựng và đầy đặn, còn hát Chèo không được hát cộng minh với âm thanh bẹt; thanh nhạc mới sử dụng giọng hỗn hợp và chuyển giọng để mở rộng âm vực của giọng hát, còn hát Chèo chủ yếu hát giọng thật để đảm bảo tính chất tròn trịa trong phát âm nhả chữ… Vì vậy phải khéo léo vận dụng kết hợp tốt giữa kỹ thuật thanh nhạc mới và một số kỹ thuật hát Chèo mới có thể tạo cho ca khúc mang âm hưởng chèo cũng như những ca khúc Việt Nam khác được tròn vành, rõ chữ và có được sự mềm mại cần thiết ở những ca khúc trữ tình. Dưới đây là một số kĩ thuật quan trong trong việc xử lý những ca khúc mang âm hưởng Chèo:
Một là, kỹ thuật hát liền giọng
Kỹ thuật hát liền giọng là một kỹ thuật khó, mang tính chất cơ bản nhất của các trường phái thanh nhạc trên thế giới. Trong thực tế ca hát ở Việt Nam, tất cả các thể loại ca hát từ hát mới đến hát cổ truyền đều coi trọng kỹ thuật này, chỉ khác ở hát cổ truyền, người ta dùng với một thuật ngữ khác, ví dụ như: Quan họ Bắc Ninh gọi là “nền” trong (vang, rền, nền, nảy); với chèo, các nghệ nhân ngành chèo gọi là hát “liền hơi ". Đây là một kỹ thuật hát chuyển tiếp liên tục, đều đặn từ âm nọ sang âm kia, tạo ra những câu hát liên kết không ngắt quãng. Trong các tác phẩm khí nhạc khi yêu cầu một câu nhạc liên tiếp người ta dùng chữ “Legato”, hoặc dấu nối vòng cung. Xét về phương diện thanh nhạc, Legato ngoài tính chất hát liền giọng và giai điệu có tính liên kết thì còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là yêu cầu về âm thanh sao cho thanh thoát và trong sáng. Vì vậy, một người bị tật hát giọng cổ vẫn có thể hát liên kết giai điệu nhưng không thể đạt yêu cầu liền giọng một cách đầy đủ về ý nghĩa và chất lượng âm thanh. Vậy hát liền giọng còn là cách hát để đáp ứng tính chất mềm mại và trong sáng của giai điệu. Đa số những người mới học hát, không nắm vững được cách hát liền giọng nên tiếng hát bị rời rạc, không đều đặn và không thanh thoát. Đây là một yêu cầu kỹ thuật khó, không thể trong một thời gian ngắn nắm vững ngay được mà phụ thuộc vào sự tiến bộ chung về kỹ thuật của quá trình học tập lâu dài.
Điều kiện tiên quyết để hát mẫu âm trên đạt đến độ chuẩn của kỹ thuật hát liền giọng là âm thanh phải tròn, sáng, đều đặn, gắn kết các nguyên âm sao cho quyện vào nhau. Khống chế hơi thở tạo sự thống nhất về vị trí âm thanh từ thấp lên cao. Khẩu hình linh hoạt, mềm mại đảm bảo cho mỗi âm luyện thanh được phát ra rõ ràng, tròn trịa và trong sáng.
Hai là, kỹ thuật hát nhấn nhá
Kỹ thuật hát nhấn nhá là kỹ thuật thường gặp trong ca khúc mang âm hưởng Chèo. Trong thực tế, khi nghe các làn điệu chèo, cũng có thể bắt gặp kiểu hát này ở các bài hát Vui, hát Hề. kĩ thuật hát nhấn nhá này gần giống với kỹ thuật " non Legato " trong thanh nhạc mới, tức là đều nhấn nhưng nhấn ở đây không mạnh và không ngắt hẳn ra như kỹ thuật " non Legato " mà nhấn nhá to nhỏ, nhịp nhàng, không đứt quãng. Kỹ thuật nhấn nhá thường kết hợp với tiết tấu đảo phách, tạo ra những hiệu ứng tươi vui, hóm hỉnh.
Kỹ thuật nhấn nhá là một kỹ thuật khó, đòi hỏi ở người hát phải có những xử lý tinh tế, tạo nên những phẩm chất rất riêng của dòng ca khúc mang âm hưởng chèo. Sự tinh tế đó thể hiện trong việc điều tiết hơi thở nông sâu, cường độ vang thay đổi ở từng chữ tạo ra điểm nhấn nhá với sắc thái to nhỏ nhịp nhàng, mà không thô ráp.
Kỹ thuật nhấn nhá không thực hiên ở phách mạnh hoặc phách nhẹ mà thường được sử dụng ở những phách đảo, phách nghịch trong một ô nhịp. Khi tập những mẫu âm luyện thanh này, việc đầu tiên người hát phải lấy hơi hợp lý cho từng cao độ nhấn nhá, tránh tình trạng lấy hơi nông, nhấn ở những nốt cao âm thanh không bật ra được, và khi lấy hơi quá sâu, nhấn ở những nốt thấp, âm thanh bật ra sẽ bị căng cứng, gấp gáp, không tròn trịa gây mệt cho người hát. Khi lấy hơi hợp lý rồi thì nén lại tạo lực bật âm thanh ra nhẹ nhàng, uyển chuyển, cường độ vang thay đổi ở từng chữ tạo sắc thái to nhỏ. Khẩu hình thoải mái, thả lỏng hàm dưới, môi trên hơi nhếch lên để lộ hàm răng như cười tạo điều kiện phát ra những âm thanh trong sáng. Tất cả những kỹ thuật để tạo ra sự nhấn nhá phải được diễn ra một cách khéo léo và đạt đến độ tinh tế mới thể hiện hết cái hay của kỹ thuật này. Gọi là nhấn nhá nhưng chỉ hơi khác hát liền giọng một chút, như là hơi gợn tí, hơi thoảng qua mà người nghe vẫn nhận ra được sự khác biệt.
Ba là, Hát lướt nhanh
Hát lướt nhanh là một yêu cầu quan trọng của nghệ thuật ca hát khi thể hiện những ca khúc tươi vui, rộn ràng với tốc độ nhanh và linh hoạt. Muốn hát tốt những ca khúc này, phải có kỹ thuật hát lướt nhanh, nếu không âm thanh sẽ nặng nề, không linh hoạt, không rõ lời, nhịp điệu không dứt khoát, không đúng với tốc độ quy định của ca khúc.
Những ca khúc mang âm hưởng chèo đa phần là những ca khúc trữ tình, nhưng cũng có những ca khúc nhanh thể hiện sự tươi vui, rộn ràng như: Giải phóng quê tôi - sáng tác: Văn Trung; 02 ca khúc của nhạc sĩ Đỗ Nhuận: Em là thợ quét vôi và Chiến thắng Điện Biên…Thực tế, trong nghệ thuật chèo cũng có những làn điệu, trích đoạn với tiết tấu nhanh như các vai hề hoặc các bài hát vui thể hiện tính rộn ràng, tươi vui, hóm hỉnh.
Tập hát lướt nhanh giúp cho giọng hát linh hoạt và nhẹ nhàng, hơi thở cũng được tiết kiệm và hát được câu nhạc dài hơn. Tập hát lướt nhanh còn là biện pháp khắc phục tật hát giọng cổ. Ngoài ra, kỹ thuật này còn có tác dụng giải quyết được những nốt ở âm khu cao của giọng, lúc đó, âm thanh sẽ lướt nhanh cùng hơi thở có điều kiện lên cao dễ dàng hơn. Hát nhanh cho ta cảm giác mạnh dạn khi hát những nốt cao. Dưới đây là một số mẫu âm luyện thanh cho kỹ thuật hát lướt nhanh.
Điệu Chuỷ - cung pha
Điệu Thương - cung đô
Điệu Vũ - cung đô
Đây là mẫu luyện thanh nhanh với biên độ giai điệu tương đối rộng. Khi luyện những mẫu âm này, đòi hỏi người hát phải hát với tiết tấu nhanh nhưng vẫn đúng cao độ, tròn trịa về âm thanh và thống nhất vị trí âm thanh trên tất cả các nốt. Hơi thở phải được điều hòa, khi xuống thấp phải nhẹ nhàng tránh tình trạng gằn tiếng, khi lên cao hơi thở phải căng, bụng hơi phình ra, khuôn mặt và khẩu hình phải thoải mái tạo điều kiện phát ra những âm thanh thanh thoát, sáng sủa.
Ví dụ: Dạy hát ca khúc “Em ở nơi đâu” – sáng tác: Phan Nhân
Bài hát “ Em ở nơi đâu ” viết cho giọng nam trung (Baritone).
Âm vực quãng 12
Giai điệu bài hát được viết ở giọng la thứ, nhịp 2/4 và được lồng chất liệu chèo (làn điệu Lới lơ). Giai điệu với nhịp độ vừa phải, linh hoạt, nhịp nhàng.
Với ca khúc này, yêu cầu đối với sinh viên phải kết hợp giữa kỹ thuật thanh nhạc mới với một số kỹ thuật hát chèo truyền thống. Nghiên cứu phân tích những đặc điểm của bài hát như: Giai điệu, lời ca, tiết tấu, phong cách, âm hưởng chèo.
Ca khúc “ Em ở nơi đâu ” được viết ở hình thức nhỏ với giai điệu súc tích. Vì thế, để thể hiện hết ý tứ của mình, nhạc sĩ Phan Nhân đã để cho âm nhạc lặp đi lặp lại ba lần tạo điều kiện cho lời ca được nhiều lên làm phong phú thêm cho ngôn ngữ văn học. Vậy nên, khi hát cần phải chú ý nhiều đến nội dung của bài hát để chuyển tải cho người nghe đúng những cung bậc của tình cảm và cũng để tránh tình trạng nhầm từ lời này sang lời khác.
“Em ở nơi đâu” của nhạc sĩ Phan Nhân là một ca khúc trữ tình thể hiện tình cảm thiết tha trong sáng, lấy chất liệu từ các làn điệu chèo, trong đó có làn điệu Lới lơ. Để hát tốt được ca khúc này, SV phải vận dụng linh hoạt giữa kỹ thuật hát mới với kỹ thuật hát truyền thống làm cho ca khúc vừa mang hơi thở của thời đại lại vẫn giữ được những đặc trưng của nghệ thuật ca hát dân tộc.
Có thể nói, từ xa xưa, các nghệ nhân đã đúc rút nên kỹ thuật thanh nhạc cổ truyền quý báu như: vang, rền, nền, nảy... để xử lý những nhược điểm của âm thanh, tròn vành, rõ chữ để xứ lý những nhược điểm của phát âm nhả chữ trong ngôn ngữ tiếng Việt. Khi hát những ca khúc mang âm hưởng chèo, người hát có thể vận dụng những kỹ thuật này để đạt yêu cầu hát mềm mại, nhấn nhá, đúng với tính chất của hát chèo. Tuy nhiên, được sáng tác trong thời đại mới, gắn với nghệ thuật hát mới, những tác phẩm này cũng gắn với đặc điểm của thời đại. Để đánh giá kỹ thuật một bài hát, nghệ thuật hát mới có tiêu chí đòi hỏi người hát phải hát bằng âm thanh cộng minh, xử lý đúng sắc thái của bài hát. Đối với những tác phẩm mang âm hưởng chèo, khi gặp những nốt cao, những âm thanh khó, đây chính là lúc người học cần vận dụng kết hợp kỹ thuật thanh nhạc du nhập từ châu Âu với kỹ thuật thanh nhạc cổ truyền, trong đó có kỹ thuật hát chèo là trung tâm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Văn Cầu (1964), Tim hiểu phương pháp viết Chèo, Nxb Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
2. Nguyễn Thúy Hà (2014), Ca khúc mang âm hưởng dân ca Nghệ Tĩnh trong dạy học Thanh nhạc cho hệ Đại học sư phạm âm nhạc, luân văn Thạc sĩ, chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc, Đại học sư phạm Nghệ thuật TW.
3. Bùi Đức Hạnh (2006), 150 làn điệu chèo cổ, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Phạm Lê Hòa (2008-2009), Đề án Hỗ trợ đưa dân ca vào trường THCS của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển giáo dục THCS II là cơ quan chủ trì, Trường ĐHSP Nghệ thuật TW là đơn vị thực hiện.
5. Mai Khanh (1982), Sách học Thanh nhạc, Nxb vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu Sân khấu Chèo, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
7. Nguyễn Trung Kiên (2001), Phương pháp sư phạm Thanh nhạc, Viện âm nhạc Hà Nội.
8. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu Tiếng Việt và âm thanh cổ truyền, Viện âm nhạc Việt Nam.
9. Trần Ngọc Lan (2011), Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát, Nxb giáo dục Việt Nam.
10. Nguyễn Thanh Phương (2003), Âm nhạc sân khấu chèo nửa cuổi thể kỷ XX, trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.
(Nguồn: http://www.spnttw.edu.vn)