Đào tạo ngành sáng tác trong giai đoạn hiện nay
(Đề dẫn Hội thảo quốc tế Đào tạo ngành sáng tác âm nhạc trong giai đoạn hiện nay 10-2014)
Hôm nay, chúng ta tập hợp tại đây để bàn về một chủ đề quan trọng, vừa có tính thời sự, đồng thời có tính lâu dài, đó là việc đào tạo nhạc sĩ sáng tác tại các nhạc viện trong giai đoạn hiện nay. Đây là một chủ đề chuyên sâu có những đặc thù riêng phụ thuộc vào lịch sử và tình hình phát triển của nền âm nhạc mỗi nước, nhưng có một điểm chung là hầu hết các nhạc viện trên thế giới từ trước đến nay đều có khoa đào tạo ngành sáng tác âm nhạc (composition). Mục đích của việc đào tạo một nhạc sĩ sáng tác (composer) là sau thời gian học tập trong nhạc viện (khoảng 4 hoặc 5 năm với một người thầy chuyên ngành, thường là một giáo sư - nhạc sĩ có uy tín) cộng với những kiến thức cơ bản được trang bị để trở thành một người viết nhạc chuyên nghiệp.
Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân (Ảnh: Nguyễn Thị Minh Châu)
Người nhạc sĩ trẻ phải làm chủ được những kỹ thuật sáng tác cơ bản thể hiện qua những tác phẩm đầu tay từ dễ đến khó, qua những học phần từ đơn giản đến phức tạp mà điểm cuối phải hoàn thành là một bản giao hưởng (symphony) và được trình bày trong lễ tốt nghiệp bằng dàn nhạc giao hưởng.
Đây là mô hình đào tạo kinh điển được áp dụng tại nhiều nhạc viện của Nga, Đức, Pháp và cả Việt Nam. Ngày nay, cũng có một số xu hướng dạy sáng sáng phi kinh điển như sáng tác âm nhạc điện tử (electro acoustic), âm nhạc kết hợp với máy tính hoặc âm nhạc kết hợp với các tiếng động tự nhiên...
Nhưng bản chất của việc dạy và học sáng tác là học các kỹ thuật kinh điển (sử dụng giai điệu, hòa thanh, phức điệu, tiết tấu, điệu tính và phi điệu tính (tonal và atonal) để xây dựng những kết cấu âm nhạc không lời (instrumental music) trong một hình thức định hình (kinh điển là ba đoạn, biến tấu, sonate...). Sản phẩm âm nhạc đó, cần có dấu ấn riêng của cá nhân, không trùng lặp phong cách cũng như bút pháp của người khác và chuyển tải được trạng thái tình cảm của tác giả tới người nghe.
Nói đến đào tạo nhạc sĩ sáng tác thì cần phải nói đến điều kiện của sinh viên để học sáng tác: phải là người có năng khiếu âm nhạc, được học nhạc từ rất sớm, biết chơi thông thạo một đến nhiều nhạc cụ (piano, violon...) ở trình độ âm nhạc trung cấp trở lên, bộc lộ năng khiếu sáng tạo. Thời hiện đại cần có thêm kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm âm nhạc để hỗ trợ công việc thực hiện các tổng phổ...
Một vấn đề quan trọng là đối tượng người thầy, chính các giáo sư - nhạc sĩ làm công tác sư phạm đào tạo quyết định chất lượng và khuynh hướng phát triển của lớp nhạc sĩ sáng tác trẻ. Đây là đội ngũ những nhạc sĩ có uy tín, tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc nổi tiếng, có kinh nghiệm đào tạo sinh viên sáng tác. Nếu thiếu đội ngũ các giáo sư - nhạc sĩ chuyên sâu thì khó có thể đảm bảo đào tạo lớp kế cận có chất lượng.
Vấn đề môi trường trong quá trình đào tạo nhạc sĩ sáng tác. Sáng tác âm nhạc là một quá trình liên tục bền bỉ khám phá thể nghiệm nên rất cần có môi trường âm nhạc thuận lợi. Những tác phẩm sinh viên viết ra phải được vang lên từ những bản piano do tác giả trình bày đến các bản hòa tấu romance với phần đệm.
Đối với một số thể loại mang tính thể nghiệm như âm nhạc cụ thể (concret music) hoặc âm nhạc mix với âm thanh điện tử, băng từ... cần có studio để sinh viên thực tập và thể nghiệm các hiệu quả.
Nói về tầm quan trọng của việc đào tạo nhạc sĩ sáng tác, có nhạc sĩ sáng tác thì mới có tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm sẽ là nguồn dinh dưỡng nuôi “cơ thể âm nhạc” của một quốc gia, một dân tộc, làm phong phú thêm các chương trình biểu diễn của các dàn nhạc giao hưởng, các nhà hát opera, ballet, các festival âm nhạc, cung cấp tác phẩm mới cho các nghệ độc tấu (solist). Việc đào tạo nhạc sĩ sáng tác liên quan mật thiết đến đời sống âm nhạc của đất nước, nền âm nhạc của một quốc gia mạnh hay yếu phụ thuộc trước hết vào lực lượng sáng tác và đội ngũ tương lai kế cận. Chú trọng đến việc đào tạo nhạc sĩ sáng tác còn có tác dụng kích hoạt các lĩnh vực khác từ biểu diễn, chỉ huy đến nghiên cứu lý luận...
Đối với lịch sử đào tạo ngành sáng tác âm nhạc tại Việt Nam, có thể lấy mốc 1956 (năm thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam) ngay từ những năm đầu tiên, chúng ta đã cử những cán bộ âm nhạc sang các nhạc viện lớn của thế giới như: Nhạc viện Tchaikovsky (Moskva), Nhạc viện Bắc Kinh, Thượng Hải, Leipzig, Sofia... Chính những nhạc sĩ được đào tạo bài bản đã trở thành những lớp đầu tiên xây dựng nền khí nhạc Việt Nam và trở thành những người thầy đào tạo các thế hệ nhạc sĩ đi vào con đường chuyên nghiệp như: Trần Ngọc Xương, Hoàng Vân, Hoàng Đạm, Đàm Linh, Nguyễn Đình Tấn, Ngô Sĩ Hiển, Ca Lê Thuần, Nguyễn Văn Nam, Minh Khang và các thế hệ tiếp theo như: Đỗ Hồng Quân, Trọng Đài, Đào Trọng Minh, Đặng Hữu Phúc, Nguyễn Việt Đức, Khắc Yên, Đức Trịnh, Trần Mạnh Hùng, Phạm Minh Thành...
Chính các thế hệ nhạc sĩ được đào tạo bài bản từ đó đến nay đã âm thầm đóng góp cho nền âm nhạc của đất nước bằng các tác phẩm khí nhạc và thanh nhạc.
Trong cuộc hội thảo này, chúng ta cũng cần phân tích thực trạng công cuộc đào tạo nhạc sĩ hiện nay và cũng cần tham khảo mô hình đào tạo của các chuyên gia các nước bạn, phân tích được các mối quan hệ giữa các khâu:
- Tuyển sinh đầu vào - sử dụng đầu ra (sinh viên tốt nghiệp).
- Trang bị kiến thức kinh điển trong nhà trường - vận dụng theo nhu cầu xã hội.
- Rèn luyện tư duy khí nhạc - viết ca khúc pop để sinh sống.
- Mối quan hệ giữa hai lực lượng dạy và học: thầy ngày càng ít, trò không ham học. Mâu thuẫn giữa tác phẩm viết ra công phu và khả năng sử dụng biểu diễn là rất ít.
Từ đó, tìm ra con đường hợp lý, khoa học, hiệu quả nhất, nhằm đạt được mục tiêu:
- Đào tạo nhiều nhạc sĩ sáng tác để có thêm nhiều tác phẩm tốt, hay cho xã hội.
- Đào tạo nhiều nhạc sĩ sáng tác để phát triển đội ngũ nhạc sĩ chuyên nghiệp góp phần nâng cao vị thế của nền âm nhạc chuyên nghiệp. Khắc phục sự mất cân đối giữa thanh nhạc và khí nhạc, giữa âm nhạc giải trí với nền âm nhạc hàn lâm.
*
Cần thực hiện phương châm xây dựng một nền âm nhạc Việt Nam hoàn chỉnh, phát triển cả thanh nhạc và khí nhạc, một nền âm nhạc chiều rộng phục vụ đại chúng, và âm nhạc hàn lâm bác học đỉnh cao làm nhịp cầu giao lưu với các nền âm nhạc tiên tiến của khu vực và thế giới.