Dàn bát âm trên vòm trần Thiên vương cổ sát
Tọa lạc giữa cao nguyên Lâm Viên, thành phố Đà Lạt với lịch sử hơn 120 năm, ngôi chùa Thiên vương cổ sát do hòa thượng Thọ Dã, người Quảng Đông khai sơn năm 1958 đáng liệt vào danh thắng cổ tích. Điểm nhấn trong quần thể kiến trúc này là Quang Minh bửu điện với ba pho tượng Tây phương tam thánh A Di Đà, Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Trí Bồ Tát làm bằng chất liệu trầm hương, thanh tao cao 4m, nặng 1.500 kg do hòa thượng Thọ Dã thỉnh về từ Hồng Kông. Bước lần theo cửa Tam quan, phía trước Từ Bi bửu điện còn có pho tượng Di Lặc nở nụ cười hoan hỷ, cát tường và Tứ thiên vương (Đa Văn Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương và Tăng Trưởng Thiên Vương) uy nghiêm, quắc thước. Xung quanh Quang Minh bửu điện bao phủ dày đặc các bức bao lam, bích họa, trên vòm trần là khoảng không ken nhiều họa tiết hình khối trang trí ô vuông và đặc biệt là sự hiện diện của nhóm kỹ nhạc trong tư thế tọa – lập sử dụng tám chủng loại nhạc khí sắp theo hình tròn. Dàn bát âm này đã thoát khỏi quan niệm truyền thống nhằm chỉ tám chủng loại nhạc khí làm từ chất liệu: bào, thổ, cách, mộc, thạch, kim, ti, trúc mà kết hợp theo tư duy biên chế, giống như dàn Bát âm nhạc lễ Bắc Bộ, Ngũ âm Nam Bộ, Thập âm, Bát âm - Nam quản, Bắc quản Phước Kiến, Đài Loan… Nói cách khác, những dàn nhạc mang tên Ngũ âm, Bát âm, Thập âm, Thập nhị âm… bấy lâu nay không còn giới hạn trong phạm vi chất liệu tạo âm, mà định hình bởi biên chế (tổ chức dàn nhạc) thể hiện thông qua số lượng nhạc khí tham gia.
Theo đó, tám nhạc khí trang trí trên vòm trần Thiên vương cổ sát gồm có: phách (2 loại), não bạt, tiêu, sáo, đàn song thanh, sênh, tỳ bà và đàn lyre.
Trong nhiều tổ chức dàn nhạc (lễ) truyền thống, Việt Nam hay Trung Quốc thường phân chia thành hai phe Văn – Võ. Phe Võ như dàn nhạc Cổ xuy chủ yếu tập trung nhạc cụ có âm lượng lớn, như kèn bầu (sona), trống, chiêng (la) và Phe văn, dàn Ty trúc tập hợp nhạc khí có âm lượng vừa phải, như sáo, tiêu, đàn dây... Dàn Cổ xuy có âm lượng lớn nhờ sự hỗ trợ của nhạc cụ gõ, cộng hưởng với cây kèn bầu với âm sắc nổi trội. Còn dàn Ty trúc do sử dụng các nhạc khí hơi cấu tạo bằng chất liệu gỗ, trúc, như sáo, tiêu, cùng bộ phận đàn dây, nên có âm lượng vừa phải. Hai dàn nhạc này hướng tới những mục đích khác nhau trong quá trình diễn tấu. Dàn Cổ xuy thiên về tính chất đánh động, còn dàn Ty trúc giàu tính chất biểu cảm. Bởi vậy, trong Tự viện, Tịnh xá… dàn Cổ xuy đóng vai trò “phát ngôn viên”, tuyên bố lý do cho cuộc lễ; bộ phận Ty trúc hỗ trợ các thủ pháp diễn xướng, như: tán, tụng, niệm…
Qua hình ảnh biểu thị trên vòm trần Thiên vương cổ sát cho thấy: dàn Bát âm thuộc loại Ty trúc. Ngay cả chiếc phách và não bạt, những nhạc cụ gõ đóng vai trò giữ nhịp cũng là những loại nhạc khí có kích thước nhỏ, âm lượng vừa phải. Đối với bộ phận nhạc khí hơi, chủ yếu có tiêu, sáo và sênh. Cuối cùng là bộ ba đàn dây: tỳ bà, song thanh và đàn lyre. Với cấu trúc này, dàn Bát âm đã tập hợp được 4 loại chất liệu tạo âm là: hơi, gỗ, đồng và dây.
Điểm đáng chú ý là: dàn nhạc trên tổ hợp nhạc khí chưa thông qua sự thỏa thuận về mặt văn hóa. Cây đàn lyre vốn là sản phẩm văn hóa cổ Hy Lạp, có nguồn gốc Ba Tư, cho dù được coi là thủy tổ của đàn harp, thì cây đàn này chẳng hề được bảo lưu trong dàn nhạc truyền thống phương Đông. Bên cạnh đó, sự xuất hiện đồng thời hai bộ phách, do hai kỹ nhạc sử dụng cũng đem đến cảm nhận phi thực tế. Trên thực tế, phách đóng vai trò chỉ huy trong một dàn nhạc. Và ở một dàn nhạc, không thể xuất hiện đồng thời hai vị trí chỉ huy. Chưa kể, theo tư duy hòa sắc (chứ không phải hòa thanh), hiểu là sự kết hợp phong phú, hài hòa giữa các nhạc cụ mang âm sắc khác nhau, việc tăng cường hai nhạc cụ đồng loại sẽ không đem tới khả năng gia tăng về mặt âm sắc. Từ đó cho thấy, hình ảnh chạm nổi trên vòm trần Thiên vương cổ sát xuất phát bởi mục đích trang trí cho không gian thờ tự hơn là phản ánh tính chất tả thực qua nghệ thuật tạo hình. Các nhạc khí này đã tổ hợp lại theo tư duy thị giác, nói cách khác, chúng đã trở thành đối tượng của nghệ thuật tạo hình. Trong số nhạc khí này, có những chủng loại được lựa chọn theo tính chất thiêng, như đàn tỳ bà, lyre, song thanh, não bạt… Theo truyền thuyết, đàn tỳ bà do Phật Thích Ca chế tác. Đàn lyre do thần Hermes làm ra từ mai rùa. Trên đỉnh Plympus dưới sự cai quản của thần Zeus có thần Apollo chuyên quản về nghệ thuật, có sở trường đàn lyre. Đàn song thanh hay đi kèm với hình ảnh Phi Thiên (Atula). Còn não bạt là một pháp khí thường dùng trong âm nhạc Phật giáo.
Phục sức của các nhạc kỹ được trang sức bằng hoa văn mây ngũ sắc, tư thế ngả nghiêng hòa quyện giữa ngồi (Tọa bộ kỹ) và Lập (Lập bộ kỹ) vốn là Hai bộ kỹ nổi tiếng từ thời kỳ nhà Đường, như diễn tả hình ảnh Phi Thiên chao liệng trên bầu trời (cõi A tu la). Đây hẳn nhiên là một dàn nhạc phỏng chiếu ý đồ tái hiện các kỹ nhạc thiên đang tấu nhạc, thứ nhạc của thân, tâm cất lên trong lặng câm. Điều đặc biệt nữa là không gian bố trí dàn nhạc này nằm sát vòm trần, nơi tiếp giáp đỉnh tòa kiến trúc, không gian cao nhất khiến cho nó trở thành đối tượng để ngưỡng vọng. Qua đó, tác giả có thể ngầm chuyển tải bức thông điệp về một tổ chức không ở cõi trần, nên việc định vị từ các chỉ báo thực tại đều đem tới kết quả sai lệch. Vì, dàn kỹ nhạc được thiết kế theo hướng quán chiếu từ bản tâm, không phải hình ảnh tả thực thuần túy và lại tái cơ cấu bằng tư duy thị giác, từ đó mở ra một chiều không gian khác, thiêng liêng, hiện hữu bên trong ngôi tự viện.
Hòa thượng Thọ Dã vốn là người Quảng Đông, thỉnh ba pho tượng Tam thánh từ Hồng Kông… cho thấy xuất phát điểm của ngôi chùa này. Chất liệu tạo tác ở đây hết sức phong phú, đa dạng, giới hạn trong tổ chức dàn Bát âm trang trí trên vòm trần, như: đàn song thanh chẳng hạn. Đàn song thanh được coi là hậu duệ của đàn sến (còn gọi là đàn Tần, người Triều Châu gọi là đàn hoa mai, sách sử dùng tên đàn Nguyễn hay Nguyễn Hàm) có quan hệ mật thiết với đàn nguyệt (loại cần ngắn của Trung Quốc) và rất giống hình tướng đàn nguyệt (hay Kìm) Việt Nam. Tại sao nghệ nhân đắp nổi không sử dụng đàn Nguyễn hay đàn sến có tư cách lịch sử hơn mà lại dùng đàn song thanh? Đàn song thanh còn gọi là đàn nguyệt Phước Kiến hay nguyệt Đài Loan, là một thành viên mới nổi vào nửa đầu thế kỷ XX. Hòa thượng Thọ Dã hẳn đã có ý đồ kiến tạo ngôi chùa theo phong cách kiến trúc Hoa Nam. Qua rất nhiều chi tiết tổng hợp cho thấy, Thiên vương cổ sát hấp thu cả phong cách Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu… Riêng nhóm kỹ nhạc rất gần với đường nét trang trí ở ngôi chùa cổ Khai Nguyên nổi tiếng ở tỉnh Phước Kiến có từ đời Đường. Chỉ có điều, các kỹ nhạc ở chùa Khai Nguyên được tạc tác nguyên khối gắn lên vách trần. Bởi vậy, tọa lạc giữa chốn mây ngàn của cao nguyên Đà Lạt, chùa Thiên vương cổ sát tuy có bề ngoài khiêm tốn, trầm mặc, cổ kính, nhưng bên trong chánh điện ken đặc họa tiết, phù điêu, hoa văn trang trí tô điểm cho khu nội viện nổi bật trong thế giới hình sắc.