Cảm nhận ca từ
Đã từ lâu tôi không dám viết về Trịnh Công Sơn (TCS), một- vì đã có quá nhiều bài viết về ông, bài nào cũng có cái hay riêng, hai- vì ông quá lớn, viết về ông sao không bị bạn đọc coi là “ăn theo” tên tuổi người nổi tiếng là điều tôi muốn tránh.
(Ảnh: Dương Minh Long).
Nhưng khi nghe các ca sĩ hát sai lời so với bài hát gốc, đến phát tức, và càng yêu nhạc Trịnh và giọng hát của ca sĩ bao nhiêu thì nỗi tức càng lớn bấy nhiêu. Nhạc Trịnh, chủ yếu là giọng la thứ, khúc thức tưởng như giản lược nhưng làm nên sự ma mị, liêu trai, ám ảnh khiến mọi tầng lớp công chúng thích được thì không phải dễ. Càng nghe càng say, càng mê. Chỉ trên các note và giai điệu căn bản ấy của Trịnh mà các nhạc sĩ hòa âm phối khí có thể khai thác vô biên để làm ra những nhạc phẩm khác nhau, song vẫn mang hồn cốt Trịnh, vẫn là của Trịnh. (Trong đó có thể nhắc đến các bản phối theo phong cách Jazz của nhạc sĩ saxophone Trần Mạnh Tuấn). Theo tôi, các bản phối có thể thay đổi theo với ban đầu, thời ca sĩ hát nhạc Trịnh với chiếc ghi ta gỗ, nhưng ca từ thì theo tôi tuyệt đối không. Không phải chỉ vì pháp luật về quyền tác giả không cho phép mà vì ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là không thay đổi được, thay đổi sẽ làm yếu đi, xấu đi, sai lệch tinh thần tác phẩm, làm mất đi sự tinh tế vốn là đặc trưng, là thế mạnh, là điểm nhấn làm nên tên tuổi của ông.
Không ít người đã nói âm nhạc của TCS có sức “công phá” rất lớn, công phá mềm, nó khiến cho tâm hồn rung động, vùng mờ của trí não được mở ra. Tôi cắt nghĩa về điều đó rằng, sở dĩ: Vì âm nhạc của Trịnh nghe mãi cũng khó chán, càng nghe càng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp sâu sắc của ca từ, càng nghe càng nhận ra sự tinh túy của xúc cảm trong từng lớp ngữ nghĩa.
Bây giờ có thể nghe nhan nhản những câu chuyện tình được kể bằng hình ảnh và âm nhạc, logic về ngữ nghĩa, giai điệu đẹp nhưng ngôn từ chỉ là một mặt phẳng. Nhưng ca từ Trịnh Công Sơn thì khác, ngôn từ có nhiều chiều kích: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” (Diễm xưa); Gọi nắng trên vai em gầy / Đường xa áo bay... Áo xưa dù nhàu vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau (Hạ Trắng); “Chiều trên quê hương tôi. Nắng khép cánh chia tay một ngày/ Vết son vàng cuối mây/ Tiếng chân về đó đây/ Chiều đi nhưng nắng vẫn cho đời/ Lửa bếp hồng khơi”; Hay: “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, gọi suốt trăm năm một cõi đi về”…
Những từ được dùng trong một cấu trúc câu mà không dùng lý để suy luận. Vẫn là những từ ngữ của đời nhưng TCS đã dùng như người họa sĩ dùng chất liệu để đưa chúng đi xa hơn, làm nên một bức tranh siêu thực, ẩn dụ,tượng trưng, lãng mạn, ấn tượng… khiến cho người nghe có thể cảm thụ được nhiều hơn “ chiều kích” cụ thể của ngôn từ khi cho chúng đứng chung thành một tổ hợp câu.
Khi tôi hát lên, chỉ một vài câu sau đây: “Người ngồi xuống xin mưa đầy. Trên hai tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru. Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”. Hay: "Nhìn những mùa thu đi/ Em nghe sầu lên trong nắng/ Và lá rụng ngoài song/ Nghe tên mình vào quên lãng/ Nghe tháng ngày chết trong thu vàng" đã thấy cái khác, rất khác của ca từ TCS. Người ta thường nghe tiếng động (âm thanh) nhưng ông thì nghe tàn phai (không phải là tiếng động), mà người thưởng thức lại thấy, tàn phai có thể nghe được. Đó là khả năng dùng chữ của bậc thày.
Âm nhạc của TCS đã tác động, ngay cả khi trình tấu không lời, nhưng ca từ cũng để lại ấn tượng sâu đậm không kém trong tâm khảm, sẻ chia và an ủi được nhiều thế hệ, tầng lớp công chúng. Không tưng bừng, cũng không ảo não, nặng ưu tư mà không riết róng. Tôi nghĩ, TCS đã làm tiếng Việt phong phú lên rất nhiều khi ông kết hợp từ làm nên một từ mới đa nghĩa hơn, tinh túy hơn có trường liên tưởng rộng hơn.
Rất nhiều tác phẩm của TCS đã được người đời bình luận, ở đây tôi xin nói tới một số bài, ít được nói tới: “Tình khúc Ơ- bai”. Ngay lần đầu nghe bài hát này tôi đã thích những từ ông dùng ở đây, và tôi cảm nhận rằng ông “bày tỏ” một cảm xúc của tác giả (ngôi tôi) trước một mối quan hệ giữa tác (tôi) với một ai đó, có kết cục là chia tay (bye bye). Ông không viết bye bye (bai bai) mà viết Ơ- bai. Ông không viết chúng ta khác nhau quá xa, mà viết “Tôi đi bằng nhịp điệu một hai ba bốn năm/ Em đi bằng nhịp điệu sáu bảy tám chín mười… làm sao ta gặp được nhau”. Một bài khác: “Một người về đỉnh cao một người về vực sâu để cuộc tình chìm mau như cánh chim cuối đèo”. Đó là những bài hát, tôi thường hát lên trong lòng mỗi khi vấp phải một cuộc tranh luận không có hồi kết, hay khi chia tay một ai đó, một người tình hoặc một đồng nghiệp. Nó giúp tôi lấy lại bình tĩnh, giúp tôi nhìn thấy cuộc đời là vô thường để tiếp tục suy tư vào cõi đẹp và bình yên.
Mới đây, nhắc về TCS, nhạc sĩ “Tình đất đỏ miền Đông”, Trần Long Ẩn, nói với tôi: Có lẽ người hiền nhất trong những người hiền, đó là Trịnh Công Sơn, lừa TCS rất dễ. Trần Long Ẩn bắt chước giọng Huế của Trịnh rất giống, ông kể khi ông bảo có người chê ca từ của Trịnh không cập nhật đời sống, cần sửa hoặc biên tập lại thì TCS ngơ ngác hỏi: “Rứa ư? moa không biết làm cách chi để sửa, sửa ra răng? Thôi, cứ để vậy đi, moa đã viết vậy cứ vậy. Còn toa thì toa sửa sao?”. Trần Long Ẩn nhìn thấy đôi mắt thơ ngây của Trịnh mà thêm yêu bạn, rồi ông bảo rằng: Toa viết “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng/ ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” phải không? Giờ người ta đổi là: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng/ ngày sau sỏi đá nó dùng ném nhau”. “Ui cha, vậy hử”. Trịnh cười ngạc nhiên. Trong túi của TCS lúc nào cũng có một chai rượu...
Trịnh Công Sơn cũng là người của hội họa. Tranh của ông cũng chứa đựng nhiều tâm sự. Có lần tôi nhận được Giấy mời tham dự triển lãm tranh của ông cùng với Lý Quý Chung (tức nhà báo Chánh Trinh, Tổng thư ký báo Lao động một thời và trước nữa là Bộ trưởng Bộ Thông tin của chính quyền Sài Gòn), và Nguyễn Quang Em. Mỗi người mỗi bút pháp. Triển lãm của ba ông có nhiều lắm người đến chúc mừng, có lẽ không thiếu một tên tuổi nào của TP HCM, nhưng nhiều nữa là người đẹp, nhìn họ đẹp mà choáng ngợp. Khi tôi còn đứng lớ rớ ở một nơi, chú tâm vào xem tranh, không bén mảng đến chỗ 3 ông, đang rất nhiều người vây quanh, thì bỗng nghe ông gọi: Trường có muốn chụp với tôi một tấm hình không? Dạ có, muốn lắm. Thế là ông gọi người chụp đang đứng gần đó, chụp đi nào, anh bạn. Bức ảnh nay đã quá cũ và tưởng chừng đã thất lạc bởi thời gian cùng những lần chuyển nhà của tôi. Nhưng rồi vào một ngày, bỗng tôi tìm thấy. Ngày 1.4. 2001 vào buổi trưa, lúc 11 giờ 45 phút, tôi nghe tin TCS mất. Và tôi nghĩ, có lẽ ông ra đi thanh thản: “ như đồng lúa gặt xong.” Đến lúc ông đã về soi bóng mình ở nơi đâu đó với một tự nhủ rằng: “chén rượu tôi uống hoài/ trả lại từng tin vui cho nhân gian chờ đợi”. Vâng, ông là người uống rượu. Nhưng ông đã để lại cho đời hơn 600 bài hát. Bức ảnh chụp với ông là kỷ niệm duy nhất và vẫn có nguy cơ thất lạc, nhưng âm nhạc của ông thì mãi mãi trong tôi và có thể mãi mãi với thời gian như bánh mỳ, như cơm, như không khí của con người.
(Nguồn: http://daidoanket.vn)