Âm nhạc Hà Nội: nhìn từ góc độ đào tạo
Nghệ thuật âm nhạc bao gồm nhiều lĩnh vực, từ sáng tác, biểu diễn, đến lý luận, phê bình và đào tạo. Mỗi lĩnh vực đó đều có những bước phát triển đáng kể. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, tôi xin phép chỉ đề cập đến những vấn đề có liên quan đến đào tạo, trong đó có việc đào tạo những nguời làm công tác âm nhạc chuyên nghiệp và những người công tác giáo dục thưởng thức âm nhạc.
Tạm chia các mốc thời gian như sau:
- Thời kỳ hòa bình lập lại từ năm 1954
- Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước từ năm 1964
- Thời kỳ sau khi thống nhất đất nước từ năm1975
- Thời kỳ đổi mới từ năm 1989 cho đến nay.
Trường Âm nhạc Việt Nam được thành lập năm 1956. Hội nhạc sĩ Việt Nam ra đời năm 1957. Thế hệ của các nhạc sĩ đầu tiên từ thời Pháp đã được hội tụ tại Hà Nội sau 9 năm kháng chiến có: Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Đình Phúc, Doãn Mẫn, Tô Vũ, Lê Yên, Thái Thị Liên và nhiều các nhạc sĩ tên tuổi khác ở miền Nam tập kết ra Bắc lúc đó, như Phan Huỳnh Điểu, Đắc Nhẫn, Trần Kiết Tường, Lưu Cầu, Phan Nhân, Ngô Huỳnh, Hoàng Hiệp, Nguyễn Ngọc Thới…
Các nhạc sĩ trong Hà Nội tạm chiếm gia nhập đội ngũ cùng các nhạc sĩ kháng chiến có: Lưu quang Duyệt, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác, Nguyễn Văn Quỳ, Tu Mi, Thiện Tơ, Tạ Tấn...
Trường Âm nhạc Việt Nam, cái nôi âm nhạc thuở ban đẩu ấy (tiền thân của Học viện Âm nhạc) đã đóng vai trò chủ lực đào tạo biết bao thế hệ nhạc sĩ cho Hà Nội và cho cả nước mà những lứa học viên đầu tiên đó là các anh: Hồng Đăng, Vĩnh Cát, Hoàng Việt, Ngô Huỳnh, Hoàng Hiệp, Huy Thục, Tô ngọc Thanh, Ca lê Thuần, Lư nhất Vũ, Vũ Loan, Lê Hàm, Đào Việt Hưng, Đoàn Phi...
Bên cạnh đó, các lớp âm nhạc ngắn hạn do Bộ Giáo dục và Bộ Văn hóa mở cho cán bộ văn hóa, cho các giáo viên khắp các vùng miền về Hà Nội đào tạo bồi dưỡng. Các anh Bùi Đình Thảo, Trần Hữu Pháp, Hoàng Long, Hoàng Lân, Phan Trần Bảng đều trưởng thành từ những khóa học này.
Rồi một luồng gió mới thổi về với âmnhạc Hà Nội vào những năm 60, đó là một loạt các nhạc sĩ được gửi đi đào tạo ở nước ngoài đã tốt nghiệp về nước làm việc như Hoàng Vân, Huy Du, Phạm Đình Sáu, Chu Minh, Hoàng Đạm, Ngô Sĩ Hiển, Trần Ngọc Xương, Nguyễn Đình Tích, Lê Bích (học ở Trung Quốc) và các anh Trọng Bằng, Trần Quý, Quang Hải, Đàm Linh, Nguyễn Đình Tấn, Ca Lê Thuần, Nguyễn Xinh, Tạ Bôn, Bùi gia Tường, Bích Ngọc… (học ở Liên Xô).
Chính các nhạc sĩ này đã phát huy những kết quả học tập từ nước ngoài một cách chính qui để đào tạo một thế hệ nhạc sĩ kế tiếp như Phó Đức Phương, Trương Ngọc Ninh, Đức Minh, Hoàng Tạo, Hoàng Lân, Phạm Tịnh, Lê Tịnh, Đoàn Bổng… và một lớp nhạc sĩ trẻ tài năng như Đặng Hữu Phúc, Hoàng Lương, Đỗ Hồng Quân…
Không quên việc bồi dưỡng thẩm mỹ trong công chúng và cho thanh thiếu niên, Hà Nội đã mở trường sơ cấp âm nhạc tiền thân của Trường Cao đẳng nghệ thuật Hà Nội ngày nay. Bộ giáo dục đã chú ý đến việc đưa âmnhạc vào trường học, bắt đầu bằng việc mở trường đào tạo giáo viên về sư phạm âm nhạc mà sau trưởng thành là trường Cao đẳng sư phạm Nhạc - Họa TƯ, rồi thành trường Đại học sư phạm Nghệ thuật TƯ hôm nay, nơi đã đào tạo hàng chục ngàn giáo viên âm nhạc, cung cấp cho Hà Nội và cho cả nước. Hà Nội đã có một số ít trường phổ thông được học âm nhạc từ những năm 1960. Rồi Trường Văn hóa nghệ thuật Quân đội cũng ra đời trên đất Hà Nội (nay trưởng thành là trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân đội, nơi đào tạo biết bao thế hệ học sinh, sinh viên hoạt động âm nhạc trong và ngoài quân đội).
Đến thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ từ năm 1964, các cơ quan trường học đều phải đi sơ tán khỏi Hà Nội, gần thì40 km, xa đến 70-80 km. Không vì thế mà việc học tập bị gián đoạn, Trường Âm nhạc Việt Nam, trườngNhạc - Họa, Bộ Giáo dục và trường sơ cấp Âm nhạc Hà Nội vẫn đảm bảo việc học hành cho học sinh âm nhạc. Một thế hệ các nhạc sĩ Hà Nội đã học tập ở nơi sơ tán, sống trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh rồi trưởng thành đi lên từ đó như Đỗ Hồng Quân, Đặng Hữu Phúc, Hoàng Lương, Lê Dũng.
Sau khi thống nhất đất nước cho đến trước thời kỳ đổi mới, trong hoàn cảnh kinh tế vô cùng khó khăn, thiếu thốn của cơ chế bao cấp, công việc đào tạo âm nhạc vẫn như một dòng sông không ngừng chảy. Có những hướng mới mở ra, số người đi học nước ngoài bằng con đường Nhà nước không nhiều như những năm trước đó, nhưng người đi học cũng không phải ít. Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất về piano trong concours Chopin thế giới năm 1980, Tôn Nữ Nguyệt Minh đoạt giải nhì trong cuộc thi quốc tế Smetana. Sau đó là những thành tựu rực rỡ của giai đoạn tiếp theo, với những giải thưởng quốc tế của các thế hệ sau như Bùi Công Duy, Nguyễn Hoàng Phương… Việc đào tạo giáo viên âm nhạc của ngành giáo dục cũng có những bước phát triển mới, trường Nhạc Họa Bộ Giáo dục nâng cấp thành trường Cao đẳng, mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các trường đào tạo âm nhạc tại Hà Nội giúp cho chất lượng ngày một năng lên. Hiện nay, âm nhạc Hà Nội có không ít tiến sĩ, thạc sĩ âm nhạc, làm nền tảng cho việc nâng cấp các trường lên bậc đại học.
Nhạc viện Hà Nội đi lên nhanh chóng với đội ngũ các giảng viên được đào tạo từ nhiều nguồn, cả ở Mỹ, Thụy Sĩ, Nhật bản và các nước khác. Lực lượng mới đó bổ sung vào đội ngũ các thầy được đào tạo từ Nga, Đức, Bungari, Hungari trước đây. Nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ làm việc ở các trường đào tạo âm nhạc được phong Phó giáo sư, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú. Đó là sự ghi nhận trân trọng của Nhà nước đối với giới văn học nghệ thuật nói chung và với giới âm nhạc nói riêng. Một số nhạc sĩ Hà Nội được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và khá nhiều nhạc sĩ được tặng giải thưởng Nhà nước.
Có mộtquãng thời gian vào cuối thập kỷ 80 và trong thập kỷ 90, các trường đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tuyển sinh hết sức vất vả thì có một hướng mới được mở ra như một lối thoát cho công tác đào tạo được tiếp tục phát triến. Đó là sự nở rộ các khóa liên kết đào tạo sư phạm âm nhạc cung cấp giáo viên cho ngành giáo dục. Hà Nội có nhiều đơn vị mở các khoa sư phạm âm nhạc tồn tại cho đến giờ. Có thể kể: Nhạc viện Hà Nội, Trường Đại học SP nghệ thuật TƯ, Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Mội, Trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, Trường Cao đẳng SP TƯ1 (tiền thân là Trường cao đẳng SP mẫu giáo TƯ1), Trường Đại học văn hóa nghệ thuật quân đội.
Số giáo viên âm nhạc được đào tạo phục vụ cho ngành giáo dục đến nay gần như đã bão hòa. Nhưng đó lại là tiền đề cho việc nâng cấp để mở tiếp các lớp đào tạo đại học, trên đại học khi các điều kiện về cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ đã đông đảo hơn trước (chỉ có điều chất lượng như thế nào thì không bàn ở bài viết này).
Nhìn toàn cảnh, về công tác đào tạo những người làm âm nhạc trên đất Hà Nội thì số lượng học sinh sinh viên ra trường hơn nửa thế kỷ qua là một con số rất lớn. Hà Nội đã có 3 dànnhạc giáo hưởng, đó là dàn nhạc giao hưởng của Học viện Âmnhạc, Dàn nhạc Giao hưởng Nhà hát nhạc vũ kịch Việt nam và Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt nam (chúng ta nhớ rằng những năm 60 Hà Nội chỉ có 1 dàn nhạc giao hưởng). Các ca sĩ tên tuổi như Mỹ Linh, Thanh Lam, Thùy Dung, Thái Bảo, Tùng Dương, Trọng Tấn Anh Thơ, Lan Anh, Đăng Dương… đã trưởng thành từ những cái nôi đào tạo âm nhạc của Hà Nội, họ được phát hiện từ các cuộc thi giọng hát hay của Hà Nội. Rồi tất cả các trường tiểu học và trung học cơ sở Hà Nội khắp 30 quận - huyện đều có giáo viên giảng dạy âm nhạc. Nhạc viện Hà Nội luôn có học sinh dự các kỳ thi quốc tế, các em nhận được nhiều giải thưởng giá trị, dàn hợp xướng của Trường Đại học sư phạm Nghệ thuật TƯ cũng đã dự thi quốc tế đạt được kết quả rất tốt.
Với 3 mục tiêu của công tác đào tạo là: 1/ Nâng cao dân trí, 2/ Cung cấp nhân lực và 3/ Bồi dưỡng nhân tài, thì đào tạo âm nhạc ở Hà Nội đã góp phần không nhỏ cho các mục tiêu trên.
Nhìn lại, chúng ta thấy có điều gì chưa bằng lòng và phải trao đổi thêm? Xin nêu vài ý kiến sau đây:
Hà Nội không chỉ có hàng trăm ca khúc hay về Thủ đô, cũng đã có không ít tác phẩm như concerto, giao hưởng, thanh xuơng kịch và các hình thức khí nhạc khác của các tác giả như: Đỗ Hồng Quân, Vĩnh Cát, Đặng Hữu Phúc, Nguyễn Thiếu Hoa, Doãn Nho, Ngô Quốc Tính, Đinh Quang Hợp, Trần Mạnh Hùng, Lê Tịnh..., nhưng hình như vẫn thiếu những tác phẩm nổi trội cho phép chúng ta tự hào mỗi khi nhắc đến nó. Lớp nhạc sĩ trẻ hiện nay được đào tạo một cách khá bài bản như: Vũ Nhật Tân, Lương Minh, Đỗ Bảo, Lưu Hà An, Giáng Son, Lê Minh Sơn, Hồ Trọng Tuấn... được tiếp cận với âm nhạc của nhân loại trong những điều kiện rất thuận lợi.
Công chúng âm nhạc cũng cần phải được bồi dưỡng để có một thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn, bởi trong cái cơ chế thị trường hiện nay, các giá trị có nhiều sự đảo lộn, những giá trị đích thực thì bị xem nhẹ và các giá trị ảo lại lên ngôi mạnh mẽ, nhiều khi lấn lướt cả những giá trị thực. Đó là nhiệm vụ trọng đại của công tác giáo dục âm nhạc trong xã hội và của các trường học.
Tại saonhìn vào âm nhạc hiện nay ta vẵn thấy có một cài gì chưa ổn, nếu nói quá là sự lộn xộn. Phải chăng cần nghĩ tới vai trò quản lý văn hóa còn nhiều buông lỏng, bất cập. Cũng cần phải nói đến vai trò cực kỳ quan trọng của các phương tiện truyển thông đại chúng. Muốn có một thị trường âm nhạc lành mạnh không thể thiếu vai trò tuyên truyên văn hóa, vai trò của những nguòi làm truyền thông có tâm, có nghề, có hiểu biết nghệ thuật sâu sắc. Việc đào tạo âm nhạc cũng phải đặt chất lượng lên hàng đầu. Âm nhạc không chấp nhận sản xuất kiểu hàng chợ, hàng nhái, hàng kém phẩm chất và có tính thương mại quá mức.
Hà Nội của thế kỷ 21 với những bước chuyển mình mạnh mẽ, môi trường xã hội thay đổi lớn lao, dân cư ngày càng đông đúc. Đây là trung tâm của những sự kiện lịch sử, những ngày lễ lớn, những sinh hoạt cộng đồng, quốc gia gắn kết với khu vực và giao lưu quốc tế, sức sống của một đô thị mới đòi hỏi sự đóng góp của âm nhạc ngày cànglớn, càng nhiều..
Nói gì thì nói cuối cùng vẫn là con nguời. Chúng ta tự hào về những gì đã làm được, đồng thời cùng nghĩ suy để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất, mang tính đồng bộ cho một tương lại âm nhạc thủ đô ngày càng lộng lẫy tươi sáng hơn, văn hóa âm nhạc Thủ đô trong trẻo, sạch đẹp hơn.